Tổng hợp những bài thuốc hay từ dân gian
Rau muống - vừa là rau, vừa là thuốc
Rau muống.
Rau muống là loại thực phẩm gắn liền với cuộc sống của mỗi gia đình người Việt. Rau muống có tên khoa học là Ipomoea aquatica Forsk, thuộc họ khoai lang, có tài liệu gọi là họ bìm bìm (Convolvulaceae).
Theo kết quả phân tích của y học hiện đại, trong 100g rau muống có: 78,2g nước, 85mg can-xi, 31,5mg phốt-pho, 20g vi-ta-min C và một hàm lượng nhỏ prô-tê-in, sắt, vi-ta-min B2, ca-rô-ten, a-xít ni-cô-tíc, đặc biệt trong giống rau muống đỏ chứa một chất giống như insulin nên đối với người mắc bệnh đái tháo đường ăn thường xuyên rau muống đỏ là rất tốt...
Còn theo đông y, rau muống có vị ngọt, tính hơi lạnh (khi nấu chín thì lạnh giảm) đi vào các kinh tâm, can, tiểu trường, đại trường. Có công năng thanh nhiệt, lương huyết, chỉ huyết, thông đại tiểu tiện, lợi thủy, giải độc khi cơ thể bị xâm nhập các chất độc của nấm độc, cá, thịt độc, khuẩn độc, hoặc độc chất do côn trùng, rắn, rết cắn... Trang “Sức khỏe và đời sống” Báo Quân đội nhân dân, xin giới thiệu một số bài thuốc từ rau muống mà dân gian vẫn thường dùng.
Trị trẻ nóng nhiệt ra mồ hôi mùa hè: Rau muống 100g, mã thầy 500g, sắc lấy nước cho trẻ uống thay nước trong ngày. Thanh nhiệt lương huyết, cầm máu, chữa tâm phiền, chảy máu mũi, lưỡi đỏ rêu vàng, khát nước mát, ù tai chóng mặt: Rau muống 150g, cúc hoa 12g, đun sôi 20 phút lọc lấy nước (có thể cho chút đường hòa vào cùng uống trong ngày). Chữa kiết lỵ: Lấy 400g cọng rau muống tươi, vỏ quýt khô lâu năm một ít, nấu nhỏ lửa trong nhiều giờ, lấy nước uống trong ngày. Trị tiểu đường: Rau muống đỏ 60g, râu ngô 30g, sắc lấy nước uống trong ngày, cần uống một thời gian dài. Trị bệnh trĩ: Lấy 100g rau muống nấu nhừ gạn lấy nước, cho 120g đường trắng, nấu lên thấy sánh như kẹo mạch nha lấy uống, ngày hai lần, mỗi lần 100g…
Gần đây, y học hiện đại còn chứng minh, rau muống cung cấp nhiều chất xơ, vi-ta-min C, A..., những người cao tuổi ăn rau muống ngày hai bữa có não trẻ hơn 5 năm và ít bị suy giảm tinh thần hơn 40% so với những người ăn ít rau muống.
Với những người bị bất tỉnh do say rượu, có thể lấy đậu đen sắc lấy nước, uống cho nôn ra thì khỏi. Còn nếu bị ngộ độc do ăn rau quả, nên lấy đậu đen tán nhỏ, ngâm rượu, chắt lấy nước cốt để uống.
Sau đây là một số bài thuốc Nam đơn giản có đậu đen khác:
Trúng hàn (cảm lạnh): Đậu đen sao cháy; đang lúc còn nóng thì chế rượu vào uống, sau đó trùm chăn cho ra mồ hôi là khỏi.
Bụng trướng do ăn nhầm các loại cá độc: Đậu đen sắc với nước uống lúc còn ấm.
Ngộ độc nấm dại: Đậu đen 2 vốc cho vào ăn, uống hoặc sắc lấy nước uống.
Trĩ ra máu: Dùng bồ kết sắc lấy nước để tẩm với đậu đen, để một lát rồi đem đậu sao vàng, xát bỏ vỏ, tán nhỏ. Lấy mỡ lợn để luyện thành viên bằng hạt ngô, mỗi lần uống 30 viên với nước gạo.
Đau đầu: Đậu đen 3 phần sao hơi có khói, ngâm với 5 phần rượu, đậy kín 7 ngày rồi uống hết.
Đau lưng, xương sống đau nhức quá không cử động được: Đậu đen 1 đấu, chia làm 5 phần: 3 phần sao, 1 phần luộc, 1 phần đồ chín. Thêm 3 đấu rượu cho vào bình, dùng nồi lớn đổ nước vào, chưng cách thủy nửa giờ. Để nửa tháng mới uống, uống nhiều hay ít tùy sức.
Mất ngủ: Đậu đen rang nóng cho vào 1 cái túi đen để gối đầu, khi nguội lại thay.
Tiểu đường: Đậu đen tán nhỏ, dồn vào một cái túi mật bò, phơi trong bóng râm 100 ngày, làm thành viên. Mỗi sáng uống 1 viên. Hoặc: Đậu đen, thiên hoa phấn lượng bằng nhau, tán nhỏ, khuấy hồ, làm thành viên bằng hạt ngô, mỗi lần dùng 70 viên, sắc với nước đậu đen uống mỗi ngày 2 lần.
Từ lâu, loài người đã biết dùng củ tỏi làm gia vị và làm thuốc. Y học dân gian cổ truyền của các dân tộc cũng có nhiều kinh nghiệm dùng tỏi chữa bệnh. Các nhà khoa học cũng có hàng ngàn công trình nghiên cứu về tác dụng chữa bệnh và các chế phẩm làm thuốc từ củ tỏi ta (hiện nay vẫn tiếp tục nghiên cứu). Tỏi có rất nhiều công dụng trong vấn đề bảo vệ sức khỏe cho con người.
Tác dụng phòng chống ung thư
Tỏi có tác dụng chống lại tiến trình phát triển khối u và ung thư của nhiều loại ung thư khác nhau như: ung thư dạ dày, ung thư cột sống ung thư phổi, ung thư kết tràng, ung thư thanh quản…
Tác dụng phòng chống các bệnh tim mạch
Tỏi làm giảm triglycerid và cholesterol trong máu tương tự clofibrat.- Tỏi làm tăng hàm lượng cholesterol tốt (HDL) và giảm hàm lượng cholesterol xấu (LDL), chống xơ cứng động mạch vành, động mạch não, động mạch ngoại vi.- Tỏi có thể làm hạ huyết áp tâm thu từ 20 -30mmHg và hạ huyết áp tâm trương từ 10 - 20mmHg. Do đó, dùng tỏi tươi hoặc chế phẩm tỏi thường xuyên hàng ngày sẽ có tác dụng điều hòa huyết áp, chống bệnh tăng huyết áp; bảo vệ tim mạch chống nhồi máu cơ tim và chống tai biến mạch máu não.
Ngoài ra, tỏi còn có tác dụng giảm đường huyết, tăng cường hệ miễn dịch, kháng sinh, trị rối loạn tiêu hoá, chống nhiễm độc chất phóng xạ, giải độc nicotin mạn tính, bảo vệ gan, chống các bệnh đường hô hấp...
Các tác dụng khác
Tỏi còn có thể chữa các bệnh răng miệng, bệnh mắt, chữa bỏng và lở loét ngoài da, chữa màng nhỉ thủng, phong thấp và thần kinh. Cho mẹ dùng 1,5g chất chiết tỏi sẽ làm cho trẻ bú sữa nhiều hơn 140% so với trẻ khác. Trong lĩnh vực công nghiệp, tỏi còn là chất bảo vệ thép, nhôm, và acid mạnh, có khả năng giảm thiểu ô nhiễm khói thuốc lá khi trộn bột tỏi vào sáp ong làm nến. Đối với chăn nuôi, khi cho tỏi vào thức ăn nuôi gà 3% bột tỏi sẽ làm cho gà mau lớn và khỏi các bệnh đường ruột.
Cách chế tỏi tươi làm thuốc trong gia đình
- Tiêu chuẩn củ tỏi: Tươi, không mọc mầm lá hoặc mọc rễ, không bị dập nát, héo.
- Các bệnh có thể dùng tỏi tươi giã nát để ăn: Các loại ung thư. Các bệnh tim mạch (tăng huyết áp, tăng lipid máu, vỡ xơ động mạch, huyết khối). Bệnh tiểu đường type II - Giải độc nicotin mạn tính chống nhiễm độc phóng xạ. Giải độc kim loại nặng. Phong thấp và đau dây thần kinh... là những bệnh phải dùng thuốc thường xuyên và lâu dài.
- Cách làm: Chọn tỏi tươi đúng tiêu chuẩn như trên, bóc sạch vỏ khô (mỗi lần dùng cho một người khoảng 3g - 5g tương ứng với một tép tỏi vừa hoặc 2 tép tỏi nhỏ). Giã nát sau 15 - 30 phút (có thể cho nước mắm pha loãng để chấm rau hoặc đậu phụ) dùng trong bữa ăn. Ngày ăn 3 lần như vậy.
L.T (Tổng hợp)
Lá bạc hà rất tốt để chữa trị viêm họng cấp. (Ảnh minh họa) Các bài thuốc chữa viêm họng cấp, mạn tính
(Eva.vn) - Thời tiết nóng lạnh, mưa nắng thất thường cùng với môi trường ngày càng ô nhiễm, nghiện thuốc lá… khiến bệnh viêm họng rất phổ biến trong cộng đồng.
Theo Ðông y, viêm họng thuộc phạm vi chứng tý, gọi là hầu tý. Viêm họng có hai thể cấp tính và mạn tính. Viêm họng cấp tính nguyên nhân do ngoại cảm phong hàn kết hợp đàm nhiệt bên trong cơ thể mà gây bệnh; viêm họng mạn tính do đàm nhiệt lâu ngày tích tụ làm tổn thương phế âm mà gây bệnh. Sau đây là một số bài thuốc chữa bệnh viêm họng theo từng thể bệnh.
Viêm họng cấp tính:Người bệnh thấy đau rát trong cổ họng, niêm mạc họng rất đỏ, sưng nề, ho từng cơn, có đờm nhầy, lúc đầu trắng, sau đặc có màu vàng. Người bệnh có thể sốt, nhức đầu, mệt mỏi. Phương pháp chữa: sơ phong, thanh nhiệt, hóa đàm. Có thể dùng một trong các bài thuốc:
Bài 1: kinh giới 16g, bạc hà 8g, kim ngân 12g, cỏ nhọ nồi 8g, huyền sâm 12g, xạ can 4g, sinh địa 12g, tang bạch bì 8g. Sắc uống ngày 1 thang chia 2 lần
Thiên hoa phấn. Bài 2: kinh giới 12g, bạc hà 6g, kim ngân 20g, cát cánh 4g, liên kiều 12g, cam thảo 4g, ngưu bàng tử 12g, sinh địa 12g, cương tàm 12g, huyền sâm 12g. Sắc uống ngày 1 thang chia 2 lần.
Viêm họng mạn tính: Người bệnh có cảm giác vướng víu, ngứa rát thường xuyên trong họng; ho và khạc đờm quánh dính hoặc trắng nhầy (nhất là sáng sớm, khi ngủ dậy). Nhiều người bệnh do ngứa họng nên hay khậm khạc, gặng hắng. Niêm mạc họng có những điểm sung huyết màu đỏ nhạt, rải rác có những hạt lympho màu trắng (viêm họng hạt). Khi sức đề kháng của cơ thể bị giảm sút (do nhiễm virut, làm việc căng thẳng, thay đổi thời tiết), bệnh có thể nặng lên thành một đợt viêm họng cấp. Phương pháp chữa: dưỡng âm thanh nhiệt, hóa đàm. Có thể dùng một trong các bài thuốc sau:
Bài 1: sinh địa 16g, xạ can 6g, huyền sâm 16g, kê huyết đằng 12g, mạch môn 12g, thạch hộc 12g, tang bạch bì 12g, bạch cương tàm 8g, cam thảo nam 2g. Sắc uống ngày 1 thang chia 2 lần.
Bài 2: sa sâm 16g, thiên hoa phấn 6g, hoàng cầm 12g, cát cánh 4g, tang bạch bì 12g, cam thảo 4g.
Nếu cổ họng có nhiều hạt lympho gia xạ can 8g. Họng khô rát gia thạch hộc 16g, huyền sâm 12g. Nếu đờm quánh dính, khó khạc ra được gia qua lâu 8g, bối mẫu 6g. Sắc uống ngày 1 thang chia 2 lần.
Bạc hà. Để phòng tránh viêm họng, hằng ngày cần:
- Súc họng bằng nước muối ấm mỗi tối trước khi đi ngủ, sau khi đánh răng để sát khuẩn họng và miệng.
- Ăn các thực phẩm thanh đạm, dễ tiêu hoá, cùng các thực phẩm chứa nhiều nước, mềm, có tác dụng thanh nhiệt. Nên ăn nhiều rau quả có chứa vitamin C và các thực phẩm giàu collagen và elastin như móng lợn, sữa, các loại đậu, gan động vật, thịt nạc… Uống nhiều nước, không nên uống nước chè quá đặc, hạn chế các thực phẩm gây kích thích như gừng, tỏi, ớt…
- Không hút thuốc, uống rượu.
- Thường xuyên mở cửa để không khí lưu thông.
- Không nên uống nước đá, đồ uống lạnh, tắm nước lạnh, ở trong phòng điều hòa nhiệt độ thấp vì nóng lạnh đột ngột dễ gây viêm họng đỏ cấp.
(Eva.vn) - Bí đỏ còn gọi là bí ngô. Theo y học cổ truyền, loại bí này có công dụng bổ trung ích khí, giải độc trừ phiền, thông kinh lạc, và lợi tiểu, thường được dùng chữa thần kinh suy nhược, đau đầu, trị giun...
Dưới đây là một số hướng dẫn của lương y Trần Khiết trong việc dùng bí đỏ chữa bệnh:
- Bị bỏng nhẹ, đau rát khó chịu, có thể dùng bí đỏ gọt bỏ vỏ, bỏ hạt, giã thật nhuyễn rồi đắp một lớp mỏng lên vết bỏng, sẽ giảm đau rát từ từ.
- Trẻ nhỏ và cả người lớn nếu bị giun đũa nhiều, khiến bụng hay đau và nôn, thì có thể lấy một miếng bí đỏ gọt bỏ vỏ, cắt từng lát mỏng, ăn sống. Người lớn mỗi lần dùng từ 20-30g. Còn trẻ em dùng độ 20g, dùng liền trong hai ngày. Nếu giun ít thì có thể lấy hạt bí đỏ đem phơi khô, rồi rang cho vàng ươm, và dùng hạt bên trong. Người lớn dùng 200g mỗi ngày; trẻ em dùng 50-100g mỗi ngày. Dùng một ngày, nghỉ một ngày. Cứ thế làm liên tục mấy ngày.
Lưu ý, những người đang bị kiết lỵ, đậu mùa thì không nên dùng bí đỏ.
(Eva.vn) - Trong dịp hè, do nắng nóng cơ thể không kịp thời tự điều chỉnh để thích ứng nên dễ bị cảm.
Ngoài việc áp dụng các bài thuốc dân gian, có thể ăn hay uống bổ sung một số loại vitamin và khoáng chất cần thiết để giúp tăng cường thể lực.
Cảm lạnh là tình trạng nhiễm một trong 120 virut ở đường hô hấp trên. Bệnh cúm cũng là tình trạng nhiễm virut và cũng có các triệu chứng tương tự nhưng thường nặng hơn. Thường thấy biểu hiện trong cảm cúm bao gồm đau đầu, viêm họng, ho, chảy nước mũi và mệt mỏi. Cúm thường cũng có biểu hiện này và thêm đau mắt, sưng tấy và cảm thấy nặng đầu.
Do vậy, một trong những điểm quan trọng trong việc trị liệu virut là tăng cường sức chống đỡ của hệ miễn dịch. Bởi thế cần bổ sung các loại vitamin như:
Vitamin C: Giúp cải thiện hệ miễn dịch bằng cách tăng cường khả năng sản xuất protein có khả năng ức chế virut.
Ăn nhiều hoa quả rất tốt cho cơ thể. (Ảnh minh họa) Kẽm: Là khoáng chất chống virut và chống ôxy hóa rất cần cho sự hoạt động của các tế bào miễn dịch.
Vitamin A: Đẩy mạnh quá trình lành màng nhầy ở phổi và họng, giúp chống lại chứng viêm hiệu quả hơn.
Đồng thời nên ăn các loại thực phẩm hạt họ hạnh nhân và các loại hạt đậu đỗ để bổ sung các chất chống ôxy hóa và kẽm. Bất cứ tác nhân nào gây kích thích và làm sưng tấy họng đều là nguyên nhân dẫn tới viêm và thường là hậu quả của bệnh cảm lạnh và cảm cúm.
Trong viêm họng có thể là viêm hầu họng, viêm thanh quản hay viêm amidan. Nói chung, hầu hết các loại viêm họng đều là do tình trạng nhiễm virut. Một số rất ít là do nhiễm khuẩn, thường là liên cầu khuẩn. Trong trường hợp này, các vi chất cần bổ sung là vitamin C và kẽm. Thực phẩm nên ăn như là húng tây, húng quế sẽ giúp sạch họng hay ăn gừng có tác dụng kháng viêm tốt.
Nhiều loại trà có tác dụng chống ung thư. (Ảnh minh họa)
Những loại trà chống ung thư
(Eva.vn) - Các nhà khoa học vừa phát hiện ra công dụng rất quý của các loại trà đen nói chung và trà ô long Trung Quốc nói riêng là hạn chế sự phát triển của bệnh ung thư khiến các khối u ung thư bị co lại.
Trong nghiên cứu thứ nhất, các nhà khoa học Mỹ đã phân tích hợp chất theaflavin-2 (TF-2) chỉ có trong trà đen và trà ô long Trung Quốc và thấy rằng hợp chất này có khả năng tiêu diệt các tế bào ung thư.
Trong khi đó, các nhà nghiên cứu Ấn Độ lại nghiên cứu tác dụng của chất polyphenols trong trà đen và trà xanh khi thử nghiệm với các con chuột thí nghiệm bị ung thư vú.
Kết quả cho thấy, số lượng các khối u giảm 77% ở các con chuột được tiêm chất polyphenols chiết xuất từ trà đen và 92% ở các con chuột được điều trị bằng chất polyphenols chiết suất từ trà xanh, đồng thời giảm sự phát triển của các khối u.
Nhiều loại trà có tác dụng chống ung thư. (Ảnh minh họa)
Tiến sỹ Tim Bond, thành viên Ủy ban cố vấn về trà tại Anh khẳng định thí nghiệm của các nhà nghiên cứu Mỹ cũng như Ấn Độ đều cho thấy các chất trong trà đen có thể giúp ngăn chặn tế bào ung thư phát triển, hoặc tiêu diệt chúng. Tuy nhiên, ông nói rằng các phát hiện mới này vẫn cần được thừ nghiệm lâm sàng để đánh giá về hiệu quả của trà đen trong việc chống bệnh ung thư ở người.
Ngoài ra, uống trà đen cũng như trà xanh còn rất có lợi vì chúng chứa nhiều chất chống ôxy hóa những chất có thể loại trừ các phân tử có hại tích lũy trong cơ thể cũng như các tế bào bị hư hại. Theo các nhà khoa việc uống 2 cốc trà giúp bổ sung cho cơ thể lượng các chất chống ôxy hóa ngang với việc ăn 5 xuất rau hoặc 2 quả táo.
Thứ Hai, ngày 11/07/2011, 05:00
(Eva.vn) - Estrogen giúp cơ thể của bạn xây dựng mật độ xương, nhưng với phụ nữ có tuổi thì estrogen bị mất đi nhiều. Flavanoids trong trà có thể giống với các tác động của estrogen phần nào.
Trà thảo dược nói chung chứa flavanoids (hợp chất có nhiều tác dụng sinh học và có khả năng chống oxy hóa), đem lại nhiều lợi ích sức khỏe khác nhau. Trà đen, trà trắng và trà xanh lá cây tất cả đều có nguồn gốc từ các loại thực vật tương tự nhau cùng có tên là Camellia sinensis, nhưng lá cây màu khác nhau thì sẽ tạo ra loại trà khác nhau.
Chè đen chứa hợp chất flavanoids khác hơn so với các loại trà xanh và trắng và có lượng caffeine cao hơn so với 2 loại trà còn lại. Nước trà đen có thể dùng để uống như uống trà bình thường hoặc pha nóng pha lạnh để uống giải khát tùy ý.
Chất dinh dưỡng trong trà đen
Flavanoids trong trà đen bao gồm theaflavins, thearubigens và myricitin flavanols, kaempferol và quercetin. Một số bằng chứng trong nghiên cứu trên động vật cho thấy các flavanoids này có thể giúp ngăn ngừa bệnh. Trà đen cũng chứa một lượng nhỏ fluoride, có thể hữu ích trong việc ngăn ngừa sâu răng.
Trà đen rất tốt cho xương khớp. (Ảnh minh họa) Trà đen và mật độ xương
Một nghiên cứu năm 2003 với hơn 91.000 phụ nữ có tên Sáng kiến sức khỏe phụ nữ đã cho thấy những người uống 4 hoặc nhiều hơn 4 tách trà mỗi ngày có một mật độ xương tổng thể cao hơn, trong khi những người uống ít nhất 3 tách trà một ngày có mật độ xương cột sống cao hơn những người không uống trà. Những người phụ nữ đã được khảo sát về tiêu thụ trà và sức khỏe của xương được đo bằng cách xem xét các kết quả kiểm tra mật độ xương và tỷ lệ gãy xương ở phụ nữ.
Tác động của trà trên xương
Các nhà nghiên cứu đã tiến hành nghiên cứu năm 2003 đưa ra giả thuyết rằng uống trà có thể làm tăng mật độ xương do tác dụng của flavanoids trong trà lên estrogen. Estrogen giúp cơ thể của bạn xây dựng mật độ xương, nhưng với phụ nữ có tuổi thì estrogen bị mất đi nhiều. Flavanoids trong trà có thể giống với các tác động của estrogen phần nào, do đó có thể giúp ngăn ngừa mất xương, loãng xương. Fluoride trong trà cũng giúp bổ sung canxi cho xương và có thể giúp tăng sức mạnh của xương.
Tầm quan trọng
Trong năm 2007 các nhà nghiên cứu báo cáo trong Tạp chí Dinh dưỡng lâm sàng châu Âu rằng, một cuộc khảo sát của nghiên cứu trước đây về tiêu thụ chè đen cho thấy một mối tương quan tích cực giữa uống trà đen và mật độ xương. Nhưng các nhà nghiên cứu đã tìm thấy thí nghiệm quá ít bằng chứng để kết nối tác dụng của trà đen tới việc hình thành mật độ xương. Nhưng từ nghiên cứu năm 2003, có vẻ như mối liên quan đã rõ ràng hơn và bạn nên uống nhiều trà đen hàng ngày để có lợi cho sức khỏe.
Công dụng chữa bệnh từ vỏ hành tây
Bí quyết ăn ngon, ăn "chuẩn"
(Eva.vn) - Vỏ hành tây khô giàu hợp chất flavonoid, fructan, lưu huỳnh và chất xơ giúp chống lại nhiều bệnh tật.
“Vỏ hành chứa nhiều hợp chất tốt cho sức khỏe”, chuyên gia Vanesa Benitez thuộc Đại học Madrid (Tây Ban Nha) nói.
Theo Hãng tin ANI, nhóm nghiên cứu của chuyên gia Benitez thực hiện cuộc thí nghiệm về vỏ hành tây cùng với các nhà khoa học thuộc Đại học Cranfield (Anh). Nhóm nghiên cứu nhận thấy, lớp vỏ màu nâu của hành tây (mà chúng ta thường vứt bỏ) cùng hai lớp hành tây tươi ngoài cùng có hàm lượng chất xơ và flavonoid cao. Các chuyên gia cho biết, bổ sung chất xơ và flavonoid giúp giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch, bệnh về dạ dày, ung thư ruột, tiểu đường típ 2 và béo phì.
Thứ Năm, ngày 28/07/2011, 10:30
(Eva.vn) - Theo kết quả nghiên cứu mới đây của các nhà khoa học Anh và Ý, ăn 3 quả chuối mỗi ngày sẽ giảm được nguy cơ mắc bệnh đột quỵ.
Theo kết quả nghiên cứu này, ăn 3 quả chuối vào 3 bữa ăn chính là sáng, trưa, tối sẽ giúp cung cấp đủ kali giảm nguy cơ bị cục máu đông trên não khoảng 21%. Điều này cho thấy hàng ngàn ca đột quỵ có thể được ngăn ngừa bằng cách ăn chuối và ăn thêm những loại thực phẩm giàu kali như rau bina, các loại hạt, cá, sữa, đậu năng.
Mặc dù trước đây đã có nhiều giả thuyết cho rằng chuối rất quan trọng trong việc kiểm soát vấn đề huyết áp và ngăn ngừa đột quỵ nhưng luận điểm này đã gây ra nhiều tranh cãi.
Trong nghiên cứu mới nhất, các nhà khoa học đã phân tích dữ liệu từ 11 nghiên cứu khác nhau để có được một kết quả tổng thể. Việc bổ sung những loại thực phẩm giàu kali (khoảng 1.600 mg/ngày) sẽ giảm nguy cơ đột quỵ đến 20%.
Ăn 3 quả chuối mỗi ngày giảm nguy cơ mắc bệnh đột quỵ. (Ảnh minh họa) Mỗi quả chuối chứa lượng kali trung bình là 500 mg, có tác dụng giúp giảm huyết áp và kiểm soát sự cân bằng của chất lỏng trong cơ thể.
Bổ sung quá ít kali vào cơ thể sẽ dẫn đến nhịp tim không đều, buồn nôn, khó chịu và bị chứng tiêu chảy. Theo các nhà nghiên cứu từ Đại học Warwick và Đại học Naples: “Trên thực tế, lượng kali bổ sung vào cơ thể mỗi người hàng ngày thấp hơn nhiều so với mức đề nghị”.
Kết quả nghiên cứu này đã được xuất bản trên tạp chí Tim mạch của Mỹ.
Thứ Hai, ngày 20/06/2011, 15:30
(Eva.vn) - Khi tuổi về già, nhiều chức năng trong cơ thể suy giảm, thói quen ăn uống tự do khi trẻ, sự lao động nhiều khiến người già dễ mắc những bệnh đơn giản như trĩ, tiểu rắt, đau răng...
Bài thuốc dưới đây sẽ giúp người già cải thiện được những bệnh thông thường này.
+Trị đi tiểu rắt: Lấy 2 nắm rau sam rửa sạch thái nhỏ rồi nấu với nước vo gạo nếp uống thường xuyên vào trưa và tối (nhớ uống hằng ngày).
+ Trị chứng sốt rét thông thường: Lấy một nắm rau sam nấu với nước uống. Dùng ít ngọn rau sam tươi giã nát và băng lại vùng động mạch ở cổ tay. Ngày dùng như vậy 2 lần rất công hiệu.
+ Trị trĩ: Khi mới mắc trĩ, lấy 2 nắm rau sam rửa sạch rồi luộc lên ăn hết cái, lấy nước còn nóng thì xông, khi ấm vừa thì ngâm và rửa trĩ, kiên trì làm như vậy khoảng 1 tháng sẽ thấy hiệu quả.
+ Trị đau răng: Lấy rau sam rửa sạch, giã nát, vắt lấy nước cốt hòa với mấy hạt muối rồi ngậm sẽ khỏi sưng đau.
Hoa hướng dương.
Hoa hướng dương chữa đau gan, tăng huyết áp
Thứ Ba, ngày 24/05/2011, 05:00
(Eva.vn) - Từ lá, hoa, thân, cành, rễ của cây hướng dương đều được nhân dân ta ứng dụng, chế thành các vị thuốc quý trị nhiều bệnh thông dụng.
1. Lá hướng dương: dùng 20-40g lá hướng dương, sắc uống để chữa sốt và ức chế tụ khuẩn vàng.
Dùng 30g lá hướng dương khô hoặc 60g lá hướng dương tươi, 30g thổ ngưu tất sắc nước uống thay trà để chữa chứng cao huyết áp.
2. Lõi thân và cành cây hướng dương: dùng 15-30g lõi thân và cành cây hướng dương giã nát hãm nước sôi, thêm đường trắng uống trong ngày để chữa ho gà.
Dùng khoảng 1 mét lõi thân cây hướng dương cắt khúc, sắc nước uống ngày 1 thang để chữa sỏi thận, sỏi đường tiết niệu, dùng liên tục trong 1 tuần.
Dùng khoảng 60cm lõi thân và cành hướng dương, 60g rễ rau cần cạn, sắc uống ngày 1 thang, liên tục trong nhiều ngày.
Hoa hướng dương. Ảnh: Internet
3. Rễ cây hướng dương: dùng rễ cây hoa hướng dương, tiểu hồi hương, hạt mùi, mỗi vị 6-10g, sắc nước uống chữa chứng thượng vị đau tức, ăn không tiêu.
Dùng rễ cây hoa hướng dưỡng giã nát, lọc lấy nước cốt, hòa với mật ong. Mỗi lần uống 15-30g, ngày uống 2-3 lần để chữa chứng táo bón.
Dùng 30g rễ cây hoa hướng dương sắc với đường đỏ uống để chữa chứng tinh hoàn sưng đau.
4. Hạt hướng dương: hạt hướng dương 30g, đem bóc bỏ vỏ, hãm nước sôi trong 1 tiếng, pha với đường phèn uống trong ngày, chữa chứng đi lỵ xuất huyết, chán ăn, mệt mỏi.
5. Hoa hướng dương: hoa và lá hướng dương sấy khô, tán bột mịn, trộn với dầu thực vật bôi lên vùng da bị bỏng lửa rất tốt.
Dùng 60g hoa hướng dương khô sắc lấy nước ngâm, rửa âm đạo hàng ngày để chữa chứng viêm loét âm đạo.
Dùng 30-90g cụm hoa hướng dương sắc uống để trị chứng đau đầu, ù tai, đau răng, đau gan, đau bụng, đau khớp, viêm vú và chứng tăng huyết áp.
Dùng lượng hoa hướng dương vừa đủ sắc lấy nước, để nguội bớt rồi lấy khăn tẩm chườm suốt dọc cột sống và vùng bụng ngực cho đến khi ban sởi nổi đều thì thôi. Bài này dùng cho bệnh nhân mắc sởi nhưng mọc chậm.
Cá trạch
Thức ăn từ cá giúp bổ thận, sinh tinh
Bài thuốc quanh ta
(Eva.vn) - Để chữa chứng suy giảm tình dục có rất nhiều phương pháp như dùng thuốc, tâm lý liệu pháp, ẩm thực… trong đó ăn uống đóng vai trò rất quan trọng.
Xin giới thiệu một số món ăn – bài thuốc từ cá trạch, cá trê rất đơn giản mà bổ dưỡng, tốt cho nam giới mắc chứng này để bạn đọc tham khảo.
Canh trạch
Trạch tươi sống 5-6 con loại to vừa. Làm sạch nhớt bỏ ruột, bỏ toàn bộ xương. Đổ dầu, rán mềm xương rồi cho thịt trạch vào rán để khử bớt nước. Thêm 300ml rượu hoặc 600ml nước, vài lát gừng tươi. Đun nhỏ lửa đến khi nước canh có màu trắng sữa và còn lại 1/2 là được. Bỏ phần trắng sữa, phần nước và thịt nêm tiêu muối vừa ý. Ăn cái và nước canh thang.
Cháo trạch
Trạch 250g, nhục quế và phụ phiến 10g, gừng tươi 5 lát. Gạo tẻ 100g, muối vừa đủ (quế, phụ cho vào túi vải), đổ nước nấu lấy nước bỏ bã. Trạch làm sạch lóc lấy thịt. Nấu cháo bằng nước thuốc đã chắt ra với thịt trạch. Cháo chín cho gừng và gia vị đun sôi lại. Ăn nóng (chú ý phụ phiến là hắc phụ đã được bào chế đúng cách hết độc).
Cá trạch
Canh trạch, trứng bồ câu
Cá trạch nhỏ 500g, trứng bồ câu 5 quả, mỡ gà 100g, dầu lạc 10g, rượu 50ml. Gia vị, gừng, hồ tiêu.
Trạch cho vào chậu nước muối 1 ngày để cho nó nhả hết bùn bẩn trong ruột. Rửa sạch để ráo nước. Hành thái nhỏ, gừng giã nhỏ. Xào hành gừng rồi cho trạch vào đậy vung hầm một lúc rồi mở vung cho rượu vào và lượng nước vừa phải. Dùng lửa to cho sôi rồi chuyển sang lửa nhỏ hầm nhừ. Đập trứng bồ câu vào bát đánh đều với trạch đã nhừ ra rồi cho hành, gừng vào nồi, nêm muối mỳ chính nấu sôi vớt bọt rồi cho trứng bồ câu cho chín. Ăn cho hạt tiêu, mỡ gà.
Canh trạch, đại táo
Trạch 400g, đại táo 6 quả, vài lát gừng tươi. Trạch mổ bụng bỏ nội tạng, làm sạch. Cho tất cả vào nồi nấu nhừ là dùng được.
Canh trạch, hồ tiêu
Trạch 120g, ít bột hồ tiêu, rượu, gia vị, hành gừng. Trạch làm sạch nhớt mổ bụng bỏ ruột để ráo nước. Cho trạch vào rán vàng để ráo dầu. Cho ít nước ninh nhừ, nêm gia vị hành gừng rượu. Trạch dùng loại vừa, tránh nấu lâu làm rụng xương ảnh hưởng chất lượng canh.
Cá trê, phụ tử, quế
Cá trê 100g bỏ nội tạng, bỏ mang làm sạch. Cho cá trê và phụ tử vào nồi với lượng nước vừa phải. Dùng lửa to cho sôi rồi chuyển sang lửa nhỏ nấu 2 giờ sau đó cho nhục quế vào. Nấu thêm 20 phút. Nêm gia vị (phụ tử phải được bào chế cẩn thận để tránh độc).
Cá trê, tam ô
Cá trê 500g, 60g đậu đen (ô đậu), táo đen (ô táo) 10 quả bỏ hột. Hà thủ ô 60g, gừng tươi 2 miếng. Làm sạch cá (bỏ ruột) rán trong dầu sơ qua vớt ra. Cho toàn bộ vào nồi với lượng nước vừa đủ, dùng lửa to cho sôi sau tiếp lửa nhỏ cho nhừ. Nêm gia vị.
(Theo BS. Phó Thuần Hương/Sức khỏe & đời sống)
Các bộ phận của cây ổi như vỏ rễ, vỏ thân, lá non, búp, quả đều được dùng làm thuốc.
Dịch chiết từ các bộ phận của cây ổi có tác dụng kháng khuẩn, làm se niêm mạc và cầm đi tiêu chảy. Tuy vậy, những người đang bị táo bón, bị tả lỵ có tích trệ không được dùng.
Chữa chứng tiêu chảy: vỏ dộp ổi hoặc búp ổi 20g, búp hoặc nụ sim, búp vối, búp chè, gừng tươi, hạt cau già, mỗi thứ 12g. Rốn chuối tiêu 20g. Mang tất cả các vị trên sắc đặc uống. Hoặc vỏ dộp ổi 8g, búp ổi 12g, tô mộc 8g, gừng tươi 2g, sắc với 200ml nước còn 100ml. Trẻ từ 2-5 tuổi uống 5-10ml, cách 2 giờ uống một lần. Người lớn uống 20-30ml, mỗi ngày 2-3 lần.
Chữa chứng lỵ mãn tính: lá ổi tươi 30-60g sắc uống. Hoặc quả ổi khô 2-3 quả thái lát sắc uống.
Chữa chứng tiêu hóa không tốt ở trẻ em: lá ổi 30g, tây thảo 30g, hồng trà 12g, gạo tẻ sao thơm 15-30g, sắc với 1000ml cô còn 500ml. uống mỗi ngày: trẻ từ 1-6 tháng tuổi uống 250ml, từ 1 tuổi trở lên uống 500ml, chia uống làm nhiều lần.
Có rất nhiều vị thuốc hay từ cây ổi. Ảnh: Internet
Chữa chứng thổ tả: dùng lá ổi, lá vối, lá sim, hoắc hương lượng bằng nhau sắc uống.
Chữa chứng sa trực tràng: lấy một lượng vừa đủ lá ổi tươi sắc kỹ ngâm hậu môn.
Chữa chứng băng huyết: dùng quả ổi sao cháy tồn tính tán bột. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 9g với nước ấm.
Chữa tiểu đường: lá ổi khô 15-20g sắc uống hàng ngày. Hoặc ăn vài quả ổi chừng 200g.
Chữa mụn nhọt mới phát: lá ổi non, lá đào lượng vừa đủ, đem giã nát rồi đắp lên chỗ sưng đau
***********************************************
Phòng phong
Những bài thuốc chữa đau đầu
Y học cổ truyền cho rằng, đau đầu có nhiều chứng, hoặc vì âm hư, hoặc vì dương hư, hoặc vì khí huyết hư, hoặc vì phong đờm, hỏa.
Có khi đau ở giữa, khi đau hai bên, trước trán, phía sau, đau thiên về một bên... Cần phân biệt cho rành thì chữa mới có thể khỏi được, chứ không đơn giản uống thuốc giảm đau là hết. Y học cổ truyền chia ra làm nhiều thể đau đầu như:
Âm hư đầu thống
Chứng này thường đau rải rác quanh năm, có lúc lại như không đau, là vì thận thủy kém, hỏa tà xông lên, nên dùng bài thuốc “tư âm giáng hỏa”, gồm: thục địa, ngọc trúc (đều 40g), thù nhục 16g, hoài sơn, huyền sâm, xuyên khung (đều 12g), mạch môn 9g, ngũ vị 8g. Đem sắc với 3 chén nước còn nửa chén, uống lúc ấm trước khi ăn, thuốc sắc 3 lần, uống như nhau. Mới uống thang đầu, đầu càng đau thêm, phải uống đến thang thứ hai thì mới đỡ.
Khí hư đầu thống
Chứng này đau đầu về bên phải, thì dùng bài gồm các vị: hoàng kỳ (sao mật) 16g, nhân sâm, bạch truật, trần bì, đương quy, xuyên khung, cao bản, chích cam thảo, thăng ma, hoàng bá, tế tân (mỗi vị 12g) và bán hạ 12g (tẩm nước gừng sao). Đem sắc với cùng với 3 lát gừng sống, sắc uống như các bài thuốc trên.
Huyết hư đầu thống
Chứng này thường đau về bên trái, là vì huyết hư thuộc về phong, ban đêm lại càng đau nặng, nên dùng bài gồm các vị: đương quy, xuyên khung, bạch thược, sinh địa, hoàng cầm, mạn kinh, sài hồ, phòng phong, cao bản (mỗi vị 12g), hương phụ chế 8g. Sắc uống như các bài thuốc trên.
Từ trên xuống: Hoàng bá, bán hạ, phòng phong
Khí huyết lưỡng hư đầu thống
Chứng này đau cả hai bên đầu vì khí huyết đều kém cả, thường dùng bài thuốc gồm: hoàng kỳ 16g, nhân sâm, bạch truật, chích cam thảo, xuyên khung, thăng ma, sài hồ, trần bì, hoàng bá, mạn kinh, đương quy (mỗi vị 12g), tế tân 8g. Sắc uống như trên.
Đàm hỏa đầu thống
Chứng đau đàm hỏa phần nhiều vì người gầy huyết hư mà sinh ra, thường dùng bài gồm: trần bì, bán hạ, tế tân (cùng 8g), bạch linh, hoàng cầm, xuyên khung, khương hoạt, cam thảo, cát cánh (cùng 12g) và 3 lát gừng. Sắc uống như bài thuốc trên.
Phong hàn đầu thống
Đau chứng này vì gặp phải gió lạnh, thường dùng bài gồm: bạch linh, bán hạ (mỗi vị 12g), trần bì 8g, chích cam thảo 6g. Thêm 3 lát gừng sống, sắc uống như các bài thuốc trên.
Huyễn vựng đầu thống
Chứng này khiến đầu quay, hoa mắt, tai ù, người lảo đảo như đứng trên xe, tàu hỏa, nhiều khi muốn ngã, thường dùng bài gồm: trần bì, chỉ thực, bạch linh, xuyên khung (mỗi vị 12g), bán hạ, bạch chỉ (cùng 10g), hoàng cầm, nam tinh, phòng phong, tế tân, cam thảo (cùng 8g). Sắc uống như các bài thuốc trên.
Bài thuốc quanh ta
(Suc khoe) - Ở nước ta, cây rau má lá rau muống mọc hoang dọc bờ ruộng, hàng rào, bãi cát. Ông cha ta thường dùng cây tươi, giã nát đắp chữa mụn nhọt; sắc uống chữa ho lâu ngày hoặc ho lao và chữa sốt. Nước sắc dùng nhỏ vào tai bị viêm, rửa mụn nhọt, có nơi dùng ăn như rau, thu hái quanh năm
Theo Đông y, cây rau má lá rau muống có vị đắng, tính mát; có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, lợi thủy, lương thuyết. Dưới đây là những ứng dụng của cây rau má lá rau muống đã được chứng minh:
- Chữa cảm sốt, đau họng, lở miệng: 30 – 50 g tươi hoặc 15-30 g cây rau má lá rau muống khô sắc với 400 ml nước, còn 100 ml, chia 3 lần uống/ngày hoặc ngậm và nuốt từ từ. Dùng tiên lục cho đến khi khỏi hẳn.
- Chữa viêm họng: Cây rau má lá rau muống tươi và rễ cỏ tranh, mỗi thứ 30 g, sắc nước uống trong ngày. Dùng đến khi hết đau họng.
- Mụn nhọt: Dùng 50-100 g toàn cây rau má lá rau muống tươi, nấu nước rửa hằng ngày. Bên ngoài dùng lá tươi và hoa giã nhỏ đắp vào chỗ bị mụn nhọt.
- Ho lâu ngày: 30 g cây rau má lá rau muống, mộc hồ điệp 10 g, nga bất thực thảo 20 g, sắc với 500 ml nước còn 100 ml, chia 2-3 lần uống trong ngày. Dùng liên tục 10-30 ngày.
- Chữa viêm tai giữa: Dùng cây rau má lá rau muống tươi giã nát, vắt lấy nước cốt, nhỏ vào tai bị viêm, ngày nhỏ 3-4 lần, mỗi lần 2 giọt.
- Viêm đường tiết niệu: Cây rau má lá rau muống 40 g, mã đề 30 g, dây bòng bong 30 g, cây chó đẻ 20 g. Sắc uống 7-10 ngày.
- Chữa tiêu chảy: Cây rau má lá rau muống 12 g, lá ổi 12 g, sắc lấy nước, chia 2 lần uống trong ngày.
- Chữa chín mẻ (sưng buốt đầu ngón tay): Hái một nắm cây rau má lá rau muống tươi giã nát, đắp lên chỗ sưng đau, băng cố định lại.
Chú ý: Phụ nữ có thai không nên dùng.
Rau muống - vừa là rau, vừa là thuốc
Rau muống.
Theo kết quả phân tích của y học hiện đại, trong 100g rau muống có: 78,2g nước, 85mg can-xi, 31,5mg phốt-pho, 20g vi-ta-min C và một hàm lượng nhỏ prô-tê-in, sắt, vi-ta-min B2, ca-rô-ten, a-xít ni-cô-tíc, đặc biệt trong giống rau muống đỏ chứa một chất giống như insulin nên đối với người mắc bệnh đái tháo đường ăn thường xuyên rau muống đỏ là rất tốt...
Còn theo đông y, rau muống có vị ngọt, tính hơi lạnh (khi nấu chín thì lạnh giảm) đi vào các kinh tâm, can, tiểu trường, đại trường. Có công năng thanh nhiệt, lương huyết, chỉ huyết, thông đại tiểu tiện, lợi thủy, giải độc khi cơ thể bị xâm nhập các chất độc của nấm độc, cá, thịt độc, khuẩn độc, hoặc độc chất do côn trùng, rắn, rết cắn... Trang “Sức khỏe và đời sống” Báo Quân đội nhân dân, xin giới thiệu một số bài thuốc từ rau muống mà dân gian vẫn thường dùng.
Trị trẻ nóng nhiệt ra mồ hôi mùa hè: Rau muống 100g, mã thầy 500g, sắc lấy nước cho trẻ uống thay nước trong ngày. Thanh nhiệt lương huyết, cầm máu, chữa tâm phiền, chảy máu mũi, lưỡi đỏ rêu vàng, khát nước mát, ù tai chóng mặt: Rau muống 150g, cúc hoa 12g, đun sôi 20 phút lọc lấy nước (có thể cho chút đường hòa vào cùng uống trong ngày). Chữa kiết lỵ: Lấy 400g cọng rau muống tươi, vỏ quýt khô lâu năm một ít, nấu nhỏ lửa trong nhiều giờ, lấy nước uống trong ngày. Trị tiểu đường: Rau muống đỏ 60g, râu ngô 30g, sắc lấy nước uống trong ngày, cần uống một thời gian dài. Trị bệnh trĩ: Lấy 100g rau muống nấu nhừ gạn lấy nước, cho 120g đường trắng, nấu lên thấy sánh như kẹo mạch nha lấy uống, ngày hai lần, mỗi lần 100g…
Gần đây, y học hiện đại còn chứng minh, rau muống cung cấp nhiều chất xơ, vi-ta-min C, A..., những người cao tuổi ăn rau muống ngày hai bữa có não trẻ hơn 5 năm và ít bị suy giảm tinh thần hơn 40% so với những người ăn ít rau muống.
**************************************************
Sau đây là một số bài thuốc Nam đơn giản có đậu đen khác:
Trúng hàn (cảm lạnh): Đậu đen sao cháy; đang lúc còn nóng thì chế rượu vào uống, sau đó trùm chăn cho ra mồ hôi là khỏi.
Bụng trướng do ăn nhầm các loại cá độc: Đậu đen sắc với nước uống lúc còn ấm.
Ngộ độc nấm dại: Đậu đen 2 vốc cho vào ăn, uống hoặc sắc lấy nước uống.
Trĩ ra máu: Dùng bồ kết sắc lấy nước để tẩm với đậu đen, để một lát rồi đem đậu sao vàng, xát bỏ vỏ, tán nhỏ. Lấy mỡ lợn để luyện thành viên bằng hạt ngô, mỗi lần uống 30 viên với nước gạo.
Đau đầu: Đậu đen 3 phần sao hơi có khói, ngâm với 5 phần rượu, đậy kín 7 ngày rồi uống hết.
Đau lưng, xương sống đau nhức quá không cử động được: Đậu đen 1 đấu, chia làm 5 phần: 3 phần sao, 1 phần luộc, 1 phần đồ chín. Thêm 3 đấu rượu cho vào bình, dùng nồi lớn đổ nước vào, chưng cách thủy nửa giờ. Để nửa tháng mới uống, uống nhiều hay ít tùy sức.
Mất ngủ: Đậu đen rang nóng cho vào 1 cái túi đen để gối đầu, khi nguội lại thay.
Tiểu đường: Đậu đen tán nhỏ, dồn vào một cái túi mật bò, phơi trong bóng râm 100 ngày, làm thành viên. Mỗi sáng uống 1 viên. Hoặc: Đậu đen, thiên hoa phấn lượng bằng nhau, tán nhỏ, khuấy hồ, làm thành viên bằng hạt ngô, mỗi lần dùng 70 viên, sắc với nước đậu đen uống mỗi ngày 2 lần.
**********************************************
Từ lâu, loài người đã biết dùng củ tỏi làm gia vị và làm thuốc. Y học dân gian cổ truyền của các dân tộc cũng có nhiều kinh nghiệm dùng tỏi chữa bệnh. Các nhà khoa học cũng có hàng ngàn công trình nghiên cứu về tác dụng chữa bệnh và các chế phẩm làm thuốc từ củ tỏi ta (hiện nay vẫn tiếp tục nghiên cứu). Tỏi có rất nhiều công dụng trong vấn đề bảo vệ sức khỏe cho con người.
Tác dụng phòng chống ung thư
Tỏi có tác dụng chống lại tiến trình phát triển khối u và ung thư của nhiều loại ung thư khác nhau như: ung thư dạ dày, ung thư cột sống ung thư phổi, ung thư kết tràng, ung thư thanh quản…
Tác dụng phòng chống các bệnh tim mạch
Tỏi làm giảm triglycerid và cholesterol trong máu tương tự clofibrat.- Tỏi làm tăng hàm lượng cholesterol tốt (HDL) và giảm hàm lượng cholesterol xấu (LDL), chống xơ cứng động mạch vành, động mạch não, động mạch ngoại vi.- Tỏi có thể làm hạ huyết áp tâm thu từ 20 -30mmHg và hạ huyết áp tâm trương từ 10 - 20mmHg. Do đó, dùng tỏi tươi hoặc chế phẩm tỏi thường xuyên hàng ngày sẽ có tác dụng điều hòa huyết áp, chống bệnh tăng huyết áp; bảo vệ tim mạch chống nhồi máu cơ tim và chống tai biến mạch máu não.
Ngoài ra, tỏi còn có tác dụng giảm đường huyết, tăng cường hệ miễn dịch, kháng sinh, trị rối loạn tiêu hoá, chống nhiễm độc chất phóng xạ, giải độc nicotin mạn tính, bảo vệ gan, chống các bệnh đường hô hấp...
Các tác dụng khác
Tỏi còn có thể chữa các bệnh răng miệng, bệnh mắt, chữa bỏng và lở loét ngoài da, chữa màng nhỉ thủng, phong thấp và thần kinh. Cho mẹ dùng 1,5g chất chiết tỏi sẽ làm cho trẻ bú sữa nhiều hơn 140% so với trẻ khác. Trong lĩnh vực công nghiệp, tỏi còn là chất bảo vệ thép, nhôm, và acid mạnh, có khả năng giảm thiểu ô nhiễm khói thuốc lá khi trộn bột tỏi vào sáp ong làm nến. Đối với chăn nuôi, khi cho tỏi vào thức ăn nuôi gà 3% bột tỏi sẽ làm cho gà mau lớn và khỏi các bệnh đường ruột.
Cách chế tỏi tươi làm thuốc trong gia đình
- Tiêu chuẩn củ tỏi: Tươi, không mọc mầm lá hoặc mọc rễ, không bị dập nát, héo.
- Các bệnh có thể dùng tỏi tươi giã nát để ăn: Các loại ung thư. Các bệnh tim mạch (tăng huyết áp, tăng lipid máu, vỡ xơ động mạch, huyết khối). Bệnh tiểu đường type II - Giải độc nicotin mạn tính chống nhiễm độc phóng xạ. Giải độc kim loại nặng. Phong thấp và đau dây thần kinh... là những bệnh phải dùng thuốc thường xuyên và lâu dài.
- Cách làm: Chọn tỏi tươi đúng tiêu chuẩn như trên, bóc sạch vỏ khô (mỗi lần dùng cho một người khoảng 3g - 5g tương ứng với một tép tỏi vừa hoặc 2 tép tỏi nhỏ). Giã nát sau 15 - 30 phút (có thể cho nước mắm pha loãng để chấm rau hoặc đậu phụ) dùng trong bữa ăn. Ngày ăn 3 lần như vậy.
L.T (Tổng hợp)
************************************************
(Eva.vn) - Thời tiết nóng lạnh, mưa nắng thất thường cùng với môi trường ngày càng ô nhiễm, nghiện thuốc lá… khiến bệnh viêm họng rất phổ biến trong cộng đồng.
Theo Ðông y, viêm họng thuộc phạm vi chứng tý, gọi là hầu tý. Viêm họng có hai thể cấp tính và mạn tính. Viêm họng cấp tính nguyên nhân do ngoại cảm phong hàn kết hợp đàm nhiệt bên trong cơ thể mà gây bệnh; viêm họng mạn tính do đàm nhiệt lâu ngày tích tụ làm tổn thương phế âm mà gây bệnh. Sau đây là một số bài thuốc chữa bệnh viêm họng theo từng thể bệnh.
Viêm họng cấp tính:Người bệnh thấy đau rát trong cổ họng, niêm mạc họng rất đỏ, sưng nề, ho từng cơn, có đờm nhầy, lúc đầu trắng, sau đặc có màu vàng. Người bệnh có thể sốt, nhức đầu, mệt mỏi. Phương pháp chữa: sơ phong, thanh nhiệt, hóa đàm. Có thể dùng một trong các bài thuốc:
Bài 1: kinh giới 16g, bạc hà 8g, kim ngân 12g, cỏ nhọ nồi 8g, huyền sâm 12g, xạ can 4g, sinh địa 12g, tang bạch bì 8g. Sắc uống ngày 1 thang chia 2 lần
Thiên hoa phấn.
Viêm họng mạn tính: Người bệnh có cảm giác vướng víu, ngứa rát thường xuyên trong họng; ho và khạc đờm quánh dính hoặc trắng nhầy (nhất là sáng sớm, khi ngủ dậy). Nhiều người bệnh do ngứa họng nên hay khậm khạc, gặng hắng. Niêm mạc họng có những điểm sung huyết màu đỏ nhạt, rải rác có những hạt lympho màu trắng (viêm họng hạt). Khi sức đề kháng của cơ thể bị giảm sút (do nhiễm virut, làm việc căng thẳng, thay đổi thời tiết), bệnh có thể nặng lên thành một đợt viêm họng cấp. Phương pháp chữa: dưỡng âm thanh nhiệt, hóa đàm. Có thể dùng một trong các bài thuốc sau:
Bài 1: sinh địa 16g, xạ can 6g, huyền sâm 16g, kê huyết đằng 12g, mạch môn 12g, thạch hộc 12g, tang bạch bì 12g, bạch cương tàm 8g, cam thảo nam 2g. Sắc uống ngày 1 thang chia 2 lần.
Bài 2: sa sâm 16g, thiên hoa phấn 6g, hoàng cầm 12g, cát cánh 4g, tang bạch bì 12g, cam thảo 4g.
Nếu cổ họng có nhiều hạt lympho gia xạ can 8g. Họng khô rát gia thạch hộc 16g, huyền sâm 12g. Nếu đờm quánh dính, khó khạc ra được gia qua lâu 8g, bối mẫu 6g. Sắc uống ngày 1 thang chia 2 lần.
Bạc hà.
- Súc họng bằng nước muối ấm mỗi tối trước khi đi ngủ, sau khi đánh răng để sát khuẩn họng và miệng.
- Ăn các thực phẩm thanh đạm, dễ tiêu hoá, cùng các thực phẩm chứa nhiều nước, mềm, có tác dụng thanh nhiệt. Nên ăn nhiều rau quả có chứa vitamin C và các thực phẩm giàu collagen và elastin như móng lợn, sữa, các loại đậu, gan động vật, thịt nạc… Uống nhiều nước, không nên uống nước chè quá đặc, hạn chế các thực phẩm gây kích thích như gừng, tỏi, ớt…
- Không hút thuốc, uống rượu.
- Thường xuyên mở cửa để không khí lưu thông.
- Không nên uống nước đá, đồ uống lạnh, tắm nước lạnh, ở trong phòng điều hòa nhiệt độ thấp vì nóng lạnh đột ngột dễ gây viêm họng đỏ cấp.
***************************************
Bí đỏ có công dụng trị giun đũa.
Trị giun đũa bằng bí đỏ(Eva.vn) - Bí đỏ còn gọi là bí ngô. Theo y học cổ truyền, loại bí này có công dụng bổ trung ích khí, giải độc trừ phiền, thông kinh lạc, và lợi tiểu, thường được dùng chữa thần kinh suy nhược, đau đầu, trị giun...
Dưới đây là một số hướng dẫn của lương y Trần Khiết trong việc dùng bí đỏ chữa bệnh:
- Bị bỏng nhẹ, đau rát khó chịu, có thể dùng bí đỏ gọt bỏ vỏ, bỏ hạt, giã thật nhuyễn rồi đắp một lớp mỏng lên vết bỏng, sẽ giảm đau rát từ từ.
- Trẻ nhỏ và cả người lớn nếu bị giun đũa nhiều, khiến bụng hay đau và nôn, thì có thể lấy một miếng bí đỏ gọt bỏ vỏ, cắt từng lát mỏng, ăn sống. Người lớn mỗi lần dùng từ 20-30g. Còn trẻ em dùng độ 20g, dùng liền trong hai ngày. Nếu giun ít thì có thể lấy hạt bí đỏ đem phơi khô, rồi rang cho vàng ươm, và dùng hạt bên trong. Người lớn dùng 200g mỗi ngày; trẻ em dùng 50-100g mỗi ngày. Dùng một ngày, nghỉ một ngày. Cứ thế làm liên tục mấy ngày.
Lưu ý, những người đang bị kiết lỵ, đậu mùa thì không nên dùng bí đỏ.
********************************
Ăn nhiều hoa quả rất tốt cho cơ thể. (Ảnh minh họa)
Ăn uống chống cảm cúm mùa nắng
(Eva.vn) - Trong dịp hè, do nắng nóng cơ thể không kịp thời tự điều chỉnh để thích ứng nên dễ bị cảm.
Ngoài việc áp dụng các bài thuốc dân gian, có thể ăn hay uống bổ sung một số loại vitamin và khoáng chất cần thiết để giúp tăng cường thể lực.
Cảm lạnh là tình trạng nhiễm một trong 120 virut ở đường hô hấp trên. Bệnh cúm cũng là tình trạng nhiễm virut và cũng có các triệu chứng tương tự nhưng thường nặng hơn. Thường thấy biểu hiện trong cảm cúm bao gồm đau đầu, viêm họng, ho, chảy nước mũi và mệt mỏi. Cúm thường cũng có biểu hiện này và thêm đau mắt, sưng tấy và cảm thấy nặng đầu.
Do vậy, một trong những điểm quan trọng trong việc trị liệu virut là tăng cường sức chống đỡ của hệ miễn dịch. Bởi thế cần bổ sung các loại vitamin như:
Vitamin C: Giúp cải thiện hệ miễn dịch bằng cách tăng cường khả năng sản xuất protein có khả năng ức chế virut.
Ăn nhiều hoa quả rất tốt cho cơ thể. (Ảnh minh họa)
Vitamin A: Đẩy mạnh quá trình lành màng nhầy ở phổi và họng, giúp chống lại chứng viêm hiệu quả hơn.
Đồng thời nên ăn các loại thực phẩm hạt họ hạnh nhân và các loại hạt đậu đỗ để bổ sung các chất chống ôxy hóa và kẽm. Bất cứ tác nhân nào gây kích thích và làm sưng tấy họng đều là nguyên nhân dẫn tới viêm và thường là hậu quả của bệnh cảm lạnh và cảm cúm.
Trong viêm họng có thể là viêm hầu họng, viêm thanh quản hay viêm amidan. Nói chung, hầu hết các loại viêm họng đều là do tình trạng nhiễm virut. Một số rất ít là do nhiễm khuẩn, thường là liên cầu khuẩn. Trong trường hợp này, các vi chất cần bổ sung là vitamin C và kẽm. Thực phẩm nên ăn như là húng tây, húng quế sẽ giúp sạch họng hay ăn gừng có tác dụng kháng viêm tốt.
****************************************
(Eva.vn) - Các nhà khoa học vừa phát hiện ra công dụng rất quý của các loại trà đen nói chung và trà ô long Trung Quốc nói riêng là hạn chế sự phát triển của bệnh ung thư khiến các khối u ung thư bị co lại.
Trong nghiên cứu thứ nhất, các nhà khoa học Mỹ đã phân tích hợp chất theaflavin-2 (TF-2) chỉ có trong trà đen và trà ô long Trung Quốc và thấy rằng hợp chất này có khả năng tiêu diệt các tế bào ung thư.
Trong khi đó, các nhà nghiên cứu Ấn Độ lại nghiên cứu tác dụng của chất polyphenols trong trà đen và trà xanh khi thử nghiệm với các con chuột thí nghiệm bị ung thư vú.
Kết quả cho thấy, số lượng các khối u giảm 77% ở các con chuột được tiêm chất polyphenols chiết xuất từ trà đen và 92% ở các con chuột được điều trị bằng chất polyphenols chiết suất từ trà xanh, đồng thời giảm sự phát triển của các khối u.
Nhiều loại trà có tác dụng chống ung thư. (Ảnh minh họa)
Ngoài ra, uống trà đen cũng như trà xanh còn rất có lợi vì chúng chứa nhiều chất chống ôxy hóa những chất có thể loại trừ các phân tử có hại tích lũy trong cơ thể cũng như các tế bào bị hư hại. Theo các nhà khoa việc uống 2 cốc trà giúp bổ sung cho cơ thể lượng các chất chống ôxy hóa ngang với việc ăn 5 xuất rau hoặc 2 quả táo.
************************************
Trà đen rất tốt cho xương khớp. (Ảnh minh họa)
Uống trà đen để cải thiện xương khớp
Thứ Hai, ngày 11/07/2011, 05:00
(Eva.vn) - Estrogen giúp cơ thể của bạn xây dựng mật độ xương, nhưng với phụ nữ có tuổi thì estrogen bị mất đi nhiều. Flavanoids trong trà có thể giống với các tác động của estrogen phần nào.
Trà thảo dược nói chung chứa flavanoids (hợp chất có nhiều tác dụng sinh học và có khả năng chống oxy hóa), đem lại nhiều lợi ích sức khỏe khác nhau. Trà đen, trà trắng và trà xanh lá cây tất cả đều có nguồn gốc từ các loại thực vật tương tự nhau cùng có tên là Camellia sinensis, nhưng lá cây màu khác nhau thì sẽ tạo ra loại trà khác nhau.
Chè đen chứa hợp chất flavanoids khác hơn so với các loại trà xanh và trắng và có lượng caffeine cao hơn so với 2 loại trà còn lại. Nước trà đen có thể dùng để uống như uống trà bình thường hoặc pha nóng pha lạnh để uống giải khát tùy ý.
Chất dinh dưỡng trong trà đen
Flavanoids trong trà đen bao gồm theaflavins, thearubigens và myricitin flavanols, kaempferol và quercetin. Một số bằng chứng trong nghiên cứu trên động vật cho thấy các flavanoids này có thể giúp ngăn ngừa bệnh. Trà đen cũng chứa một lượng nhỏ fluoride, có thể hữu ích trong việc ngăn ngừa sâu răng.
Trà đen rất tốt cho xương khớp. (Ảnh minh họa)
Một nghiên cứu năm 2003 với hơn 91.000 phụ nữ có tên Sáng kiến sức khỏe phụ nữ đã cho thấy những người uống 4 hoặc nhiều hơn 4 tách trà mỗi ngày có một mật độ xương tổng thể cao hơn, trong khi những người uống ít nhất 3 tách trà một ngày có mật độ xương cột sống cao hơn những người không uống trà. Những người phụ nữ đã được khảo sát về tiêu thụ trà và sức khỏe của xương được đo bằng cách xem xét các kết quả kiểm tra mật độ xương và tỷ lệ gãy xương ở phụ nữ.
Tác động của trà trên xương
Các nhà nghiên cứu đã tiến hành nghiên cứu năm 2003 đưa ra giả thuyết rằng uống trà có thể làm tăng mật độ xương do tác dụng của flavanoids trong trà lên estrogen. Estrogen giúp cơ thể của bạn xây dựng mật độ xương, nhưng với phụ nữ có tuổi thì estrogen bị mất đi nhiều. Flavanoids trong trà có thể giống với các tác động của estrogen phần nào, do đó có thể giúp ngăn ngừa mất xương, loãng xương. Fluoride trong trà cũng giúp bổ sung canxi cho xương và có thể giúp tăng sức mạnh của xương.
Tầm quan trọng
Trong năm 2007 các nhà nghiên cứu báo cáo trong Tạp chí Dinh dưỡng lâm sàng châu Âu rằng, một cuộc khảo sát của nghiên cứu trước đây về tiêu thụ chè đen cho thấy một mối tương quan tích cực giữa uống trà đen và mật độ xương. Nhưng các nhà nghiên cứu đã tìm thấy thí nghiệm quá ít bằng chứng để kết nối tác dụng của trà đen tới việc hình thành mật độ xương. Nhưng từ nghiên cứu năm 2003, có vẻ như mối liên quan đã rõ ràng hơn và bạn nên uống nhiều trà đen hàng ngày để có lợi cho sức khỏe.
Công dụng chữa bệnh từ vỏ hành tây
Bí quyết ăn ngon, ăn "chuẩn"
(Eva.vn) - Vỏ hành tây khô giàu hợp chất flavonoid, fructan, lưu huỳnh và chất xơ giúp chống lại nhiều bệnh tật.
“Vỏ hành chứa nhiều hợp chất tốt cho sức khỏe”, chuyên gia Vanesa Benitez thuộc Đại học Madrid (Tây Ban Nha) nói.
Theo Hãng tin ANI, nhóm nghiên cứu của chuyên gia Benitez thực hiện cuộc thí nghiệm về vỏ hành tây cùng với các nhà khoa học thuộc Đại học Cranfield (Anh). Nhóm nghiên cứu nhận thấy, lớp vỏ màu nâu của hành tây (mà chúng ta thường vứt bỏ) cùng hai lớp hành tây tươi ngoài cùng có hàm lượng chất xơ và flavonoid cao. Các chuyên gia cho biết, bổ sung chất xơ và flavonoid giúp giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch, bệnh về dạ dày, ung thư ruột, tiểu đường típ 2 và béo phì.
*******************************
Chuối rất giàu kali. (Ảnh minh họa)
Ăn chuối mỗi ngày giảm nguy cơ đột quỵ
Thứ Năm, ngày 28/07/2011, 10:30
(Eva.vn) - Theo kết quả nghiên cứu mới đây của các nhà khoa học Anh và Ý, ăn 3 quả chuối mỗi ngày sẽ giảm được nguy cơ mắc bệnh đột quỵ.
Theo kết quả nghiên cứu này, ăn 3 quả chuối vào 3 bữa ăn chính là sáng, trưa, tối sẽ giúp cung cấp đủ kali giảm nguy cơ bị cục máu đông trên não khoảng 21%. Điều này cho thấy hàng ngàn ca đột quỵ có thể được ngăn ngừa bằng cách ăn chuối và ăn thêm những loại thực phẩm giàu kali như rau bina, các loại hạt, cá, sữa, đậu năng.
Mặc dù trước đây đã có nhiều giả thuyết cho rằng chuối rất quan trọng trong việc kiểm soát vấn đề huyết áp và ngăn ngừa đột quỵ nhưng luận điểm này đã gây ra nhiều tranh cãi.
Trong nghiên cứu mới nhất, các nhà khoa học đã phân tích dữ liệu từ 11 nghiên cứu khác nhau để có được một kết quả tổng thể. Việc bổ sung những loại thực phẩm giàu kali (khoảng 1.600 mg/ngày) sẽ giảm nguy cơ đột quỵ đến 20%.
Ăn 3 quả chuối mỗi ngày giảm nguy cơ mắc bệnh đột quỵ. (Ảnh minh họa)
Bổ sung quá ít kali vào cơ thể sẽ dẫn đến nhịp tim không đều, buồn nôn, khó chịu và bị chứng tiêu chảy. Theo các nhà nghiên cứu từ Đại học Warwick và Đại học Naples: “Trên thực tế, lượng kali bổ sung vào cơ thể mỗi người hàng ngày thấp hơn nhiều so với mức đề nghị”.
Kết quả nghiên cứu này đã được xuất bản trên tạp chí Tim mạch của Mỹ.
****************************
Rau sam
Rau sam trị tiểu rắt, đau răng, trĩ...Thứ Hai, ngày 20/06/2011, 15:30
(Eva.vn) - Khi tuổi về già, nhiều chức năng trong cơ thể suy giảm, thói quen ăn uống tự do khi trẻ, sự lao động nhiều khiến người già dễ mắc những bệnh đơn giản như trĩ, tiểu rắt, đau răng...
Bài thuốc dưới đây sẽ giúp người già cải thiện được những bệnh thông thường này.
+Trị đi tiểu rắt: Lấy 2 nắm rau sam rửa sạch thái nhỏ rồi nấu với nước vo gạo nếp uống thường xuyên vào trưa và tối (nhớ uống hằng ngày).
+ Trị chứng sốt rét thông thường: Lấy một nắm rau sam nấu với nước uống. Dùng ít ngọn rau sam tươi giã nát và băng lại vùng động mạch ở cổ tay. Ngày dùng như vậy 2 lần rất công hiệu.
+ Trị trĩ: Khi mới mắc trĩ, lấy 2 nắm rau sam rửa sạch rồi luộc lên ăn hết cái, lấy nước còn nóng thì xông, khi ấm vừa thì ngâm và rửa trĩ, kiên trì làm như vậy khoảng 1 tháng sẽ thấy hiệu quả.
+ Trị đau răng: Lấy rau sam rửa sạch, giã nát, vắt lấy nước cốt hòa với mấy hạt muối rồi ngậm sẽ khỏi sưng đau.
*************************************
Thứ Ba, ngày 24/05/2011, 05:00
(Eva.vn) - Từ lá, hoa, thân, cành, rễ của cây hướng dương đều được nhân dân ta ứng dụng, chế thành các vị thuốc quý trị nhiều bệnh thông dụng.
1. Lá hướng dương: dùng 20-40g lá hướng dương, sắc uống để chữa sốt và ức chế tụ khuẩn vàng.
Dùng 30g lá hướng dương khô hoặc 60g lá hướng dương tươi, 30g thổ ngưu tất sắc nước uống thay trà để chữa chứng cao huyết áp.
2. Lõi thân và cành cây hướng dương: dùng 15-30g lõi thân và cành cây hướng dương giã nát hãm nước sôi, thêm đường trắng uống trong ngày để chữa ho gà.
Dùng khoảng 1 mét lõi thân cây hướng dương cắt khúc, sắc nước uống ngày 1 thang để chữa sỏi thận, sỏi đường tiết niệu, dùng liên tục trong 1 tuần.
Dùng khoảng 60cm lõi thân và cành hướng dương, 60g rễ rau cần cạn, sắc uống ngày 1 thang, liên tục trong nhiều ngày.
Hoa hướng dương. Ảnh: Internet
Dùng rễ cây hoa hướng dưỡng giã nát, lọc lấy nước cốt, hòa với mật ong. Mỗi lần uống 15-30g, ngày uống 2-3 lần để chữa chứng táo bón.
Dùng 30g rễ cây hoa hướng dương sắc với đường đỏ uống để chữa chứng tinh hoàn sưng đau.
4. Hạt hướng dương: hạt hướng dương 30g, đem bóc bỏ vỏ, hãm nước sôi trong 1 tiếng, pha với đường phèn uống trong ngày, chữa chứng đi lỵ xuất huyết, chán ăn, mệt mỏi.
5. Hoa hướng dương: hoa và lá hướng dương sấy khô, tán bột mịn, trộn với dầu thực vật bôi lên vùng da bị bỏng lửa rất tốt.
Dùng 60g hoa hướng dương khô sắc lấy nước ngâm, rửa âm đạo hàng ngày để chữa chứng viêm loét âm đạo.
Dùng 30-90g cụm hoa hướng dương sắc uống để trị chứng đau đầu, ù tai, đau răng, đau gan, đau bụng, đau khớp, viêm vú và chứng tăng huyết áp.
Dùng lượng hoa hướng dương vừa đủ sắc lấy nước, để nguội bớt rồi lấy khăn tẩm chườm suốt dọc cột sống và vùng bụng ngực cho đến khi ban sởi nổi đều thì thôi. Bài này dùng cho bệnh nhân mắc sởi nhưng mọc chậm.
***********************************************
Bài thuốc quanh ta
(Eva.vn) - Để chữa chứng suy giảm tình dục có rất nhiều phương pháp như dùng thuốc, tâm lý liệu pháp, ẩm thực… trong đó ăn uống đóng vai trò rất quan trọng.
Xin giới thiệu một số món ăn – bài thuốc từ cá trạch, cá trê rất đơn giản mà bổ dưỡng, tốt cho nam giới mắc chứng này để bạn đọc tham khảo.
Canh trạch
Trạch tươi sống 5-6 con loại to vừa. Làm sạch nhớt bỏ ruột, bỏ toàn bộ xương. Đổ dầu, rán mềm xương rồi cho thịt trạch vào rán để khử bớt nước. Thêm 300ml rượu hoặc 600ml nước, vài lát gừng tươi. Đun nhỏ lửa đến khi nước canh có màu trắng sữa và còn lại 1/2 là được. Bỏ phần trắng sữa, phần nước và thịt nêm tiêu muối vừa ý. Ăn cái và nước canh thang.
Cháo trạch
Trạch 250g, nhục quế và phụ phiến 10g, gừng tươi 5 lát. Gạo tẻ 100g, muối vừa đủ (quế, phụ cho vào túi vải), đổ nước nấu lấy nước bỏ bã. Trạch làm sạch lóc lấy thịt. Nấu cháo bằng nước thuốc đã chắt ra với thịt trạch. Cháo chín cho gừng và gia vị đun sôi lại. Ăn nóng (chú ý phụ phiến là hắc phụ đã được bào chế đúng cách hết độc).
Cá trạch
Cá trạch nhỏ 500g, trứng bồ câu 5 quả, mỡ gà 100g, dầu lạc 10g, rượu 50ml. Gia vị, gừng, hồ tiêu.
Trạch cho vào chậu nước muối 1 ngày để cho nó nhả hết bùn bẩn trong ruột. Rửa sạch để ráo nước. Hành thái nhỏ, gừng giã nhỏ. Xào hành gừng rồi cho trạch vào đậy vung hầm một lúc rồi mở vung cho rượu vào và lượng nước vừa phải. Dùng lửa to cho sôi rồi chuyển sang lửa nhỏ hầm nhừ. Đập trứng bồ câu vào bát đánh đều với trạch đã nhừ ra rồi cho hành, gừng vào nồi, nêm muối mỳ chính nấu sôi vớt bọt rồi cho trứng bồ câu cho chín. Ăn cho hạt tiêu, mỡ gà.
Canh trạch, đại táo
Trạch 400g, đại táo 6 quả, vài lát gừng tươi. Trạch mổ bụng bỏ nội tạng, làm sạch. Cho tất cả vào nồi nấu nhừ là dùng được.
Canh trạch, hồ tiêu
Trạch 120g, ít bột hồ tiêu, rượu, gia vị, hành gừng. Trạch làm sạch nhớt mổ bụng bỏ ruột để ráo nước. Cho trạch vào rán vàng để ráo dầu. Cho ít nước ninh nhừ, nêm gia vị hành gừng rượu. Trạch dùng loại vừa, tránh nấu lâu làm rụng xương ảnh hưởng chất lượng canh.
Cá trê, phụ tử, quế
Cá trê 100g bỏ nội tạng, bỏ mang làm sạch. Cho cá trê và phụ tử vào nồi với lượng nước vừa phải. Dùng lửa to cho sôi rồi chuyển sang lửa nhỏ nấu 2 giờ sau đó cho nhục quế vào. Nấu thêm 20 phút. Nêm gia vị (phụ tử phải được bào chế cẩn thận để tránh độc).
Cá trê, tam ô
Cá trê 500g, 60g đậu đen (ô đậu), táo đen (ô táo) 10 quả bỏ hột. Hà thủ ô 60g, gừng tươi 2 miếng. Làm sạch cá (bỏ ruột) rán trong dầu sơ qua vớt ra. Cho toàn bộ vào nồi với lượng nước vừa đủ, dùng lửa to cho sôi sau tiếp lửa nhỏ cho nhừ. Nêm gia vị.
(Theo BS. Phó Thuần Hương/Sức khỏe & đời sống)
***********************************************
Có rất nhiều vị thuốc hay từ cây ổi.
Chữa tiểu đường từ quả ổi
Các bộ phận của cây ổi như vỏ rễ, vỏ thân, lá non, búp, quả đều được dùng làm thuốc.
Dịch chiết từ các bộ phận của cây ổi có tác dụng kháng khuẩn, làm se niêm mạc và cầm đi tiêu chảy. Tuy vậy, những người đang bị táo bón, bị tả lỵ có tích trệ không được dùng.
Chữa chứng tiêu chảy: vỏ dộp ổi hoặc búp ổi 20g, búp hoặc nụ sim, búp vối, búp chè, gừng tươi, hạt cau già, mỗi thứ 12g. Rốn chuối tiêu 20g. Mang tất cả các vị trên sắc đặc uống. Hoặc vỏ dộp ổi 8g, búp ổi 12g, tô mộc 8g, gừng tươi 2g, sắc với 200ml nước còn 100ml. Trẻ từ 2-5 tuổi uống 5-10ml, cách 2 giờ uống một lần. Người lớn uống 20-30ml, mỗi ngày 2-3 lần.
Chữa chứng lỵ mãn tính: lá ổi tươi 30-60g sắc uống. Hoặc quả ổi khô 2-3 quả thái lát sắc uống.
Chữa chứng tiêu hóa không tốt ở trẻ em: lá ổi 30g, tây thảo 30g, hồng trà 12g, gạo tẻ sao thơm 15-30g, sắc với 1000ml cô còn 500ml. uống mỗi ngày: trẻ từ 1-6 tháng tuổi uống 250ml, từ 1 tuổi trở lên uống 500ml, chia uống làm nhiều lần.
Có rất nhiều vị thuốc hay từ cây ổi. Ảnh: Internet
Chữa chứng sa trực tràng: lấy một lượng vừa đủ lá ổi tươi sắc kỹ ngâm hậu môn.
Chữa chứng băng huyết: dùng quả ổi sao cháy tồn tính tán bột. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 9g với nước ấm.
Chữa tiểu đường: lá ổi khô 15-20g sắc uống hàng ngày. Hoặc ăn vài quả ổi chừng 200g.
Chữa mụn nhọt mới phát: lá ổi non, lá đào lượng vừa đủ, đem giã nát rồi đắp lên chỗ sưng đau
***********************************************
Y học cổ truyền cho rằng, đau đầu có nhiều chứng, hoặc vì âm hư, hoặc vì dương hư, hoặc vì khí huyết hư, hoặc vì phong đờm, hỏa.
Có khi đau ở giữa, khi đau hai bên, trước trán, phía sau, đau thiên về một bên... Cần phân biệt cho rành thì chữa mới có thể khỏi được, chứ không đơn giản uống thuốc giảm đau là hết. Y học cổ truyền chia ra làm nhiều thể đau đầu như:
Âm hư đầu thống
Chứng này thường đau rải rác quanh năm, có lúc lại như không đau, là vì thận thủy kém, hỏa tà xông lên, nên dùng bài thuốc “tư âm giáng hỏa”, gồm: thục địa, ngọc trúc (đều 40g), thù nhục 16g, hoài sơn, huyền sâm, xuyên khung (đều 12g), mạch môn 9g, ngũ vị 8g. Đem sắc với 3 chén nước còn nửa chén, uống lúc ấm trước khi ăn, thuốc sắc 3 lần, uống như nhau. Mới uống thang đầu, đầu càng đau thêm, phải uống đến thang thứ hai thì mới đỡ.
Khí hư đầu thống
Chứng này đau đầu về bên phải, thì dùng bài gồm các vị: hoàng kỳ (sao mật) 16g, nhân sâm, bạch truật, trần bì, đương quy, xuyên khung, cao bản, chích cam thảo, thăng ma, hoàng bá, tế tân (mỗi vị 12g) và bán hạ 12g (tẩm nước gừng sao). Đem sắc với cùng với 3 lát gừng sống, sắc uống như các bài thuốc trên.
Huyết hư đầu thống
Chứng này thường đau về bên trái, là vì huyết hư thuộc về phong, ban đêm lại càng đau nặng, nên dùng bài gồm các vị: đương quy, xuyên khung, bạch thược, sinh địa, hoàng cầm, mạn kinh, sài hồ, phòng phong, cao bản (mỗi vị 12g), hương phụ chế 8g. Sắc uống như các bài thuốc trên.
Từ trên xuống: Hoàng bá, bán hạ, phòng phong
Chứng này đau cả hai bên đầu vì khí huyết đều kém cả, thường dùng bài thuốc gồm: hoàng kỳ 16g, nhân sâm, bạch truật, chích cam thảo, xuyên khung, thăng ma, sài hồ, trần bì, hoàng bá, mạn kinh, đương quy (mỗi vị 12g), tế tân 8g. Sắc uống như trên.
Đàm hỏa đầu thống
Chứng đau đàm hỏa phần nhiều vì người gầy huyết hư mà sinh ra, thường dùng bài gồm: trần bì, bán hạ, tế tân (cùng 8g), bạch linh, hoàng cầm, xuyên khung, khương hoạt, cam thảo, cát cánh (cùng 12g) và 3 lát gừng. Sắc uống như bài thuốc trên.
Phong hàn đầu thống
Đau chứng này vì gặp phải gió lạnh, thường dùng bài gồm: bạch linh, bán hạ (mỗi vị 12g), trần bì 8g, chích cam thảo 6g. Thêm 3 lát gừng sống, sắc uống như các bài thuốc trên.
Huyễn vựng đầu thống
Chứng này khiến đầu quay, hoa mắt, tai ù, người lảo đảo như đứng trên xe, tàu hỏa, nhiều khi muốn ngã, thường dùng bài gồm: trần bì, chỉ thực, bạch linh, xuyên khung (mỗi vị 12g), bán hạ, bạch chỉ (cùng 10g), hoàng cầm, nam tinh, phòng phong, tế tân, cam thảo (cùng 8g). Sắc uống như các bài thuốc trên.
***********************************************
Hoa của cây rau má lá rau muống
Dùng cây rau má lá rau muống chữa bệnh
Bài thuốc quanh ta
(Suc khoe) - Ở nước ta, cây rau má lá rau muống mọc hoang dọc bờ ruộng, hàng rào, bãi cát. Ông cha ta thường dùng cây tươi, giã nát đắp chữa mụn nhọt; sắc uống chữa ho lâu ngày hoặc ho lao và chữa sốt. Nước sắc dùng nhỏ vào tai bị viêm, rửa mụn nhọt, có nơi dùng ăn như rau, thu hái quanh năm
Theo Đông y, cây rau má lá rau muống có vị đắng, tính mát; có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, lợi thủy, lương thuyết. Dưới đây là những ứng dụng của cây rau má lá rau muống đã được chứng minh:
- Chữa cảm sốt, đau họng, lở miệng: 30 – 50 g tươi hoặc 15-30 g cây rau má lá rau muống khô sắc với 400 ml nước, còn 100 ml, chia 3 lần uống/ngày hoặc ngậm và nuốt từ từ. Dùng tiên lục cho đến khi khỏi hẳn.
- Chữa viêm họng: Cây rau má lá rau muống tươi và rễ cỏ tranh, mỗi thứ 30 g, sắc nước uống trong ngày. Dùng đến khi hết đau họng.
- Mụn nhọt: Dùng 50-100 g toàn cây rau má lá rau muống tươi, nấu nước rửa hằng ngày. Bên ngoài dùng lá tươi và hoa giã nhỏ đắp vào chỗ bị mụn nhọt.
- Ho lâu ngày: 30 g cây rau má lá rau muống, mộc hồ điệp 10 g, nga bất thực thảo 20 g, sắc với 500 ml nước còn 100 ml, chia 2-3 lần uống trong ngày. Dùng liên tục 10-30 ngày.
- Chữa viêm tai giữa: Dùng cây rau má lá rau muống tươi giã nát, vắt lấy nước cốt, nhỏ vào tai bị viêm, ngày nhỏ 3-4 lần, mỗi lần 2 giọt.
- Viêm đường tiết niệu: Cây rau má lá rau muống 40 g, mã đề 30 g, dây bòng bong 30 g, cây chó đẻ 20 g. Sắc uống 7-10 ngày.
- Chữa tiêu chảy: Cây rau má lá rau muống 12 g, lá ổi 12 g, sắc lấy nước, chia 2 lần uống trong ngày.
- Chữa chín mẻ (sưng buốt đầu ngón tay): Hái một nắm cây rau má lá rau muống tươi giã nát, đắp lên chỗ sưng đau, băng cố định lại.
Chú ý: Phụ nữ có thai không nên dùng.
***********************************
Các bài thuốc từ rau diếp
Khi bị côn trùng chui vào tai, có thể đuổi chúng ra bằng cách giã nát rau diếp, vắt lấy nước cốt, nhỏ từng giọt vào lỗ tai. Để chữa mụn nhọt sưng đau, hãy lấy rau diếp giã nát, đắp vào chỗ bị nhọt, thay ngày 2-3 lần.
***********************************
Bài thuốc từ quả chanh
***********************************
Các bài thuốc từ cà chua
***********************************
Các bài thuốc từ cau
***********************************
Các bài thuốc từ ớt
Khi bị đau nhức nửa đầu, lấy dầu ớt hoặc quả ớt thật cay bẻ đôi chấm vào mũi bên nửa đầu bị đau, cơn đau nhức hết rất nhanh. Sau đó, để làm hết cay, lấy tóc chấm vào chỗ bị cay.
***********************************
Một số bài thuốc có tía tô
Người già và người suy nhược nếu bị táo bón có thể lấy hạt tía tô và hạt hẹ mỗi thứ khoảng 15 g, giã nhỏ, chế thêm một bát nước khuấy đều rồi chắt lấy nước cốt nấu cháo ăn. Hiệu quả khá rõ rệt.
Các bài thuốc khác:
***********************************
Một số bài thuốc trị táo bón
Khoai lang 50 g, mía đỏ 60 g. Khoai lang tươi để cả vỏ, rửa sạch, xay nhỏ; mía ép lấy nước, hai thứ trộn đều với nhau, đun nhỏ lửa, quấy đều tay cho chín, chia 2 lần ăn trong ngày; ăn 5-7 ngày.
***********************************
Một số bài thuốc từ cây mía
***********************************
Một số bài thuốc từ dưa hấu
Vỏ dưa hấu, hoa kim ngân tươi mỗi thứ 20 g; lá sen tươi, hoa đậu ván trắng, vỏ quả mướp, búp tre xanh mỗi thứ 12 g, sắc uống. Bài thuốc này có tác dụng trị nóng nực, ra mồ hôi nhiều, đầu váng, mắt hoa, đau nhức.
***********************************
Một số bài thuốc quý từ nghệ vàng
Phụ nữ có thai bị ra máu, đau bụng (dọa sẩy) có thể lấy nghệ vàng, đương quy, thục địa, ngải cứu, lộc giác giao (sừng hươu) mỗi vị 1 lạng, sao khô vàng, tán nhỏ, mỗi lần uống 4 đồng cân (khoảng 40 g). Dùng gừng tươi 3 lát, táo 3 quả, sắc với nước, uống trước bữa ăn khi thuốc còn ấm.
***********************************
Thêm một số bài thuốc từ khoai lang
***********************************
Thêm một số bài thuốc từ hành
***********************************
Những bài thuốc từ đậu ván trắng
Các bài thuốc từ rau diếp
Khi bị côn trùng chui vào tai, có thể đuổi chúng ra bằng cách giã nát rau diếp, vắt lấy nước cốt, nhỏ từng giọt vào lỗ tai. Để chữa mụn nhọt sưng đau, hãy lấy rau diếp giã nát, đắp vào chỗ bị nhọt, thay ngày 2-3 lần.
Theo Đông y, rau diếp tính lạnh, vị đắng ngọt, có tác dụng lợi ngũ tạng, thông kinh mạch, được dùng để chữa tiểu tiện bất lợi, niệu huyết, âm hộ sưng đau... Dưới đây là một số ứng dụng khác:
- Chữa bí tiểu tiện: Lấy mầm và ngọn rau diếp, giã nát như hồ, nặn thành bánh, đắp lên rốn, sẽ rất hiệu nghiệm.
- Chữa tiểu tiện ra máu: Lấy rau diếp giã nát, đắp lên rốn.
- Điều trị trĩ lở loét, đại tiện xuất huyết: Dùng một trong 3 bài thuốc sau:
+ Rau diếp rửa sạch, ngâm kỹ trong nước muối, làm món rau sống ăn hằng ngày, không hạn chế liều lượng, có tác dụng nhuận tràng, chỉ huyết.
+ Nước ép rau diếp, nước ép ngó sen mỗi thứ 50 ml, thêm chút mật ong, uống ngày 2 lần, liên tục nhiều ngày cho đến khi khỏi.
+ Trường hợp trĩ lở loét, có thể nhổ 2-3 cây rau diếp, rửa sạch, sắc nước, ngâm và rửa chỗ bị bệnh, có tác dụng sát trùng và giảm đau.
- Chữa âm hộ sưng đau: Hạt diếp 30 g, giã dập, cho vào 1 bát nước, đun sôi trong 5 phút rồi uống khi còn nóng.
Lưu ý: Theo sách Bản thảo diễn nghĩa, nếu ăn rau diếp nhiều quá thì mắt có thể bị mờ. Còn theo sách Điền Nam bảo thảo, người bị đau mắt không được dùng rau diếp.
- Chữa bí tiểu tiện: Lấy mầm và ngọn rau diếp, giã nát như hồ, nặn thành bánh, đắp lên rốn, sẽ rất hiệu nghiệm.
- Chữa tiểu tiện ra máu: Lấy rau diếp giã nát, đắp lên rốn.
- Điều trị trĩ lở loét, đại tiện xuất huyết: Dùng một trong 3 bài thuốc sau:
+ Rau diếp rửa sạch, ngâm kỹ trong nước muối, làm món rau sống ăn hằng ngày, không hạn chế liều lượng, có tác dụng nhuận tràng, chỉ huyết.
+ Nước ép rau diếp, nước ép ngó sen mỗi thứ 50 ml, thêm chút mật ong, uống ngày 2 lần, liên tục nhiều ngày cho đến khi khỏi.
+ Trường hợp trĩ lở loét, có thể nhổ 2-3 cây rau diếp, rửa sạch, sắc nước, ngâm và rửa chỗ bị bệnh, có tác dụng sát trùng và giảm đau.
- Chữa âm hộ sưng đau: Hạt diếp 30 g, giã dập, cho vào 1 bát nước, đun sôi trong 5 phút rồi uống khi còn nóng.
Lưu ý: Theo sách Bản thảo diễn nghĩa, nếu ăn rau diếp nhiều quá thì mắt có thể bị mờ. Còn theo sách Điền Nam bảo thảo, người bị đau mắt không được dùng rau diếp.
***********************************
Bài thuốc từ quả chanh
Chanh là một loại quả thuộc họ cam quýt, có chứa đường, canxi, sắt và các vitamin B1, B2, A, đặc biệt là hàm lượng vitamin C rất cao. Do phong phú vitamin nên chanh có thể ức chế và giảm huyết áp, hoãn giải sự căng thẳng thần kinh, hỗ trợ tiêu hoá, đồng thời có thể phân giải được độc tố của cơ thể.
Những người bị cao huyết áp, tắc nghẽn cơ tim uống nước chanh có tác dụng bổ trợ cho trị liệu. Nước trong quả chanh có chứa nhiều muối, axít xitric có thể phòng trị bệnh thận kết sỏi, đồng thời làm giảm sự kết sỏi thận mãn. Thường xuyên ăn chanh còn tốt cho người bị bệnh viêm khớp do phong thấp, bệnh tiểu đường, tiêu hoá kém.
Chanh còn có tác dụng làm đẹp và bảo vệ da, chất axít trong chanh có thể trung hoà kiềm của biểu bì từ đó phòng trừ việc xuất hiện các sắc tố lạ trên da. Ngoài ra, các loại vitamin trong chanh còn hấp thụ thông qua da làm cho da giữ được sự mịn màng, sáng đẹp.
Những người bị bệnh trứng cá có thể xoa hoặc bôi vài giọt dầu chanh sẽ làm cho mặt sáng sạch. Sử dụng kiên trì có thể tan hết mụn trứng cá mà không để lại sẹo.
Mùa hè, uống nươc chanh có tác dụng giải khát. Quả chanh còn có tác dụng hoá đờm, chống ho, kiện tì tiêu thực, sinh tân giải rượu. Những người bị viêm loét dạ dày không nên dùng. Trong nhà bạn đặt vài quả chanh có thể điều tiết không khí trong phòng, nhỏ vài giọt chanh trong tủ có thể khử được mùi hôi.
Những người bị cao huyết áp, tắc nghẽn cơ tim uống nước chanh có tác dụng bổ trợ cho trị liệu. Nước trong quả chanh có chứa nhiều muối, axít xitric có thể phòng trị bệnh thận kết sỏi, đồng thời làm giảm sự kết sỏi thận mãn. Thường xuyên ăn chanh còn tốt cho người bị bệnh viêm khớp do phong thấp, bệnh tiểu đường, tiêu hoá kém.
Chanh còn có tác dụng làm đẹp và bảo vệ da, chất axít trong chanh có thể trung hoà kiềm của biểu bì từ đó phòng trừ việc xuất hiện các sắc tố lạ trên da. Ngoài ra, các loại vitamin trong chanh còn hấp thụ thông qua da làm cho da giữ được sự mịn màng, sáng đẹp.
Những người bị bệnh trứng cá có thể xoa hoặc bôi vài giọt dầu chanh sẽ làm cho mặt sáng sạch. Sử dụng kiên trì có thể tan hết mụn trứng cá mà không để lại sẹo.
Mùa hè, uống nươc chanh có tác dụng giải khát. Quả chanh còn có tác dụng hoá đờm, chống ho, kiện tì tiêu thực, sinh tân giải rượu. Những người bị viêm loét dạ dày không nên dùng. Trong nhà bạn đặt vài quả chanh có thể điều tiết không khí trong phòng, nhỏ vài giọt chanh trong tủ có thể khử được mùi hôi.
***********************************
Các bài thuốc từ cà chua
Để chữa loét miệng, có thể ngậm nước ép cà chua ngày vài lần, mỗi lần vài phút. Còn nếu thấy miệng khô lưỡi rát, hãy lấy nước ép cà chua 150 ml và nước mía ép 20 ml trộn đều để uống, ngày 2 lần.
Sau đây là một số ứng dụng khác của cà chua:
- Chữa chảy máu chân răng: Ăn cà chua sống ngày 3-4 lần, mỗi lần 1-2 quả, ăn trong 2 tuần sẽ có kết quả.
- Chữa bỏng lửa: Tách lấy vỏ cà chua có dính thịt quả đắp lên chỗ bỏng, thỉnh thoảng lại thay. Thuốc có tác dụng chống đau rát và kích thích da chóng hồi phục.
- Chữa mụn nhọt lở loét: Lấy ngọn cây cà chua rửa sạch, giã nát, thêm vài hạt muối, đắp lên nơi tổn thương rồi băng lại. Mỗi ngày làm vài lần cho đến khi khỏi.
Hoặc: Nấu cà chua với dầu hay mỡ cho đến khi bốc hết hơi nước, sau đó dùng như một loại thuốc mỡ để bôi lên những nơi mụn nhọt, lở loét.
- Chữa viêm loét dạ dày: Nước ép cà chua và nước ép khoai tây mỗi thứ 150 ml, trộn đều, uống vào buổi sáng và tối hằng ngày.
- Chữa bí đại tiện, thiếu máu: Cà chua sống gọt bỏ vỏ, thái thành miếng nhỏ, trộn với mật ong, ăn ngày 2-3 lần, mỗi lần 1-2 quả.
- Chữa sốt cao kèm theo khát nước: Cà chua 200 g thái lát, sắc nước uống thay trà trong ngày, uống lạnh hay nóng đều được.
Hoặc: Nước ép cà chua, nước ép dưa hấu mỗi thứ 200 ml, trộn đều, chia 2-3 lần uống trong ngày.
- Chữa viêm gan mạn tính: Cà chua 250 mg rửa sạch, thái miếng, thịt bò 100 g thái mỏng, xào ăn hằng ngày. Món ăn này có tác dụng hỗ trợ tốt trong điều trị viêm gan mạn tính, giúp cơ thể nhanh hồi phục.
- Chữa tăng huyết áp, xuất huyết đáy mắt: Vào sáng sớm (khi chưa ăn uống gì), lấy 1-2 quả cà chua, rửa sạch bằng nước sôi, thái thành miếng nhỏ, thêm chút đường cho đủ ngọt rồi ăn sống. Mỗi liệu trình kéo dài 15 ngày, nghỉ 3 ngày rồi tiếp tục liệu trình khác.
- Chữa phồng tĩnh mạch do bị nghẽn: Cà chua sống thái lát mỏng hoặc nghiền nát, đắp lên chỗ mạch máu bị phồng mỗi ngày 1 lần, khi bắt đầu thấy rát thì bỏ thuốc ra. Thuốc có tác dụng thông huyết, chống đau nhức.
Sau đây là một số ứng dụng khác của cà chua:
- Chữa chảy máu chân răng: Ăn cà chua sống ngày 3-4 lần, mỗi lần 1-2 quả, ăn trong 2 tuần sẽ có kết quả.
- Chữa bỏng lửa: Tách lấy vỏ cà chua có dính thịt quả đắp lên chỗ bỏng, thỉnh thoảng lại thay. Thuốc có tác dụng chống đau rát và kích thích da chóng hồi phục.
- Chữa mụn nhọt lở loét: Lấy ngọn cây cà chua rửa sạch, giã nát, thêm vài hạt muối, đắp lên nơi tổn thương rồi băng lại. Mỗi ngày làm vài lần cho đến khi khỏi.
Hoặc: Nấu cà chua với dầu hay mỡ cho đến khi bốc hết hơi nước, sau đó dùng như một loại thuốc mỡ để bôi lên những nơi mụn nhọt, lở loét.
- Chữa viêm loét dạ dày: Nước ép cà chua và nước ép khoai tây mỗi thứ 150 ml, trộn đều, uống vào buổi sáng và tối hằng ngày.
- Chữa bí đại tiện, thiếu máu: Cà chua sống gọt bỏ vỏ, thái thành miếng nhỏ, trộn với mật ong, ăn ngày 2-3 lần, mỗi lần 1-2 quả.
- Chữa sốt cao kèm theo khát nước: Cà chua 200 g thái lát, sắc nước uống thay trà trong ngày, uống lạnh hay nóng đều được.
Hoặc: Nước ép cà chua, nước ép dưa hấu mỗi thứ 200 ml, trộn đều, chia 2-3 lần uống trong ngày.
- Chữa viêm gan mạn tính: Cà chua 250 mg rửa sạch, thái miếng, thịt bò 100 g thái mỏng, xào ăn hằng ngày. Món ăn này có tác dụng hỗ trợ tốt trong điều trị viêm gan mạn tính, giúp cơ thể nhanh hồi phục.
- Chữa tăng huyết áp, xuất huyết đáy mắt: Vào sáng sớm (khi chưa ăn uống gì), lấy 1-2 quả cà chua, rửa sạch bằng nước sôi, thái thành miếng nhỏ, thêm chút đường cho đủ ngọt rồi ăn sống. Mỗi liệu trình kéo dài 15 ngày, nghỉ 3 ngày rồi tiếp tục liệu trình khác.
- Chữa phồng tĩnh mạch do bị nghẽn: Cà chua sống thái lát mỏng hoặc nghiền nát, đắp lên chỗ mạch máu bị phồng mỗi ngày 1 lần, khi bắt đầu thấy rát thì bỏ thuốc ra. Thuốc có tác dụng thông huyết, chống đau nhức.
***********************************
Các bài thuốc từ cau
Để chữa viêm ruột, lỵ, hãy lấy một hạt cau khô (thái nhỏ) và 6 g rộp thân cây ổi, sắc với 100 ml nước đến khi còn 50 ml rồi chia 2-3 lần uống trong ngày.
Sau đây là hai bài thuốc khác từ cau:
- Chữa phù thũng, bụng đầy trướng, khó thở, tiểu tiện ít, ốm nghén nôn mửa: Vỏ quả cau, vỏ rễ dâu, vỏ quýt, vỏ gừng mỗi thứ 12 g, sắc với 300 ml nước, lấy 200 ml, chia hai lần uống trong ngày.
- Chữa sán xơ mít: Hạt cau 60-80 g (trẻ em 30 g), hạt bí ngô bóc vỏ 100 g (trẻ em 40 g). Cho hạt cau vào 500 ml nước, sắc lấy 150-200 ml. Nhỏ dung dịch gelatin 2,5% vào cho đến khi hết hiện tượng kết tủa để loại bỏ toàn bộ tanin rồi gạn lấy nước trong. Ăn hạt bí vào sáng sớm, lúc đói, 2 tiếng sau uống nước sắc hạt cau rồi nằm nghỉ. Đến khi thật buồn đi ngoài thì đi vào một chậu nước ấm, nhúng cả mông vào nước.
Sau đây là hai bài thuốc khác từ cau:
- Chữa phù thũng, bụng đầy trướng, khó thở, tiểu tiện ít, ốm nghén nôn mửa: Vỏ quả cau, vỏ rễ dâu, vỏ quýt, vỏ gừng mỗi thứ 12 g, sắc với 300 ml nước, lấy 200 ml, chia hai lần uống trong ngày.
- Chữa sán xơ mít: Hạt cau 60-80 g (trẻ em 30 g), hạt bí ngô bóc vỏ 100 g (trẻ em 40 g). Cho hạt cau vào 500 ml nước, sắc lấy 150-200 ml. Nhỏ dung dịch gelatin 2,5% vào cho đến khi hết hiện tượng kết tủa để loại bỏ toàn bộ tanin rồi gạn lấy nước trong. Ăn hạt bí vào sáng sớm, lúc đói, 2 tiếng sau uống nước sắc hạt cau rồi nằm nghỉ. Đến khi thật buồn đi ngoài thì đi vào một chậu nước ấm, nhúng cả mông vào nước.
***********************************
Các bài thuốc từ ớt
Khi bị đau nhức nửa đầu, lấy dầu ớt hoặc quả ớt thật cay bẻ đôi chấm vào mũi bên nửa đầu bị đau, cơn đau nhức hết rất nhanh. Sau đó, để làm hết cay, lấy tóc chấm vào chỗ bị cay.
Quả ớt vị cay, tính nóng, có tác dụng tiêu đờm, ôn trung, tán hàn, giải biểu, kiện vị, tiêu thực, gây sung huyết, kích thích chung, thông kinh lạc, giảm đau, sát trùng. Rễ ớt có tác dụng làm hoạt huyết, tán thũng. Lá ớt có vị đắng, tính mát có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, lợi tiểu.
Quả ớt trị tỳ vị hư lạnh, tiêu chảy, nôn mửa, dạ dày ruột đầy trướng, mất trương lực, tích trệ, ăn không tiêu, đau nhức nửa đầu, đau lưng, đau khớp, thống phong, đau dây thần kinh, viêm thanh quản, viêm họng. Người đau dạ dày, tạng nhiệt, máu nóng không dùng ớt.
Các bài thuốc cụ thể:
Chữa đau lưng, thấp khớp, đau dây thần kinh: Quả ớt giã nát, ngâm rượu với tỷ lệ 1/2 (một phần ớt tươi, 2 phần rượu) dùng xoa bóp. Có thể lấy hạt ớt phơi khô, tán bột viên làm cao dán (dùng riêng hoặc phối hợp với các vị thuốc khác)...
Chữa trúng phong, răng cắn chặt: Lá ớt tươi (loại ớt chỉ thiên) 30-50 g, giã nát, thêm nước và ít muối, đổ nước vào miệng còn bã đắp vào răng, người bệnh sẽ tỉnh lại.
Chữa sốt rét: Lá ớt tươi 30 g giã nát, hòa với nước đun sôi để nguội, chắt nước cốt uống trước khi lên cơn sốt 2 giờ. Ngày 1 lần, dùng trong 5-7 ngày liền.
Chữa phù thũng: Lá ớt tươi 30-40 g, sao vàng, sắc uống trong ngày.
Chữa rắn rết cắn, côn trùng đốt: Ớt tươi 15 quả, lá đu đủ 3 lá, rễ ớt chỉ thiên 80 g, tất cả giã nát, thêm nước, gạn nước uống, bã dùng đắp lên vết cắn. Nếu là rết và côn trùng đốt dùng lượng ít hơn. Có thể dùng riêng lá ớt tươi lượng vừa đủ giã nát, đắp vào vết cắn. Sau 15-30 phút nếu còn đau nhức làm thêm lần nữa.
Chữa eczema: Lá ớt tươi 30 g, me chua 20 g, hai thứ giã nát đắp, dùng 5-10 ngày là khỏi.
Chữa mụn nhọt, đinh độc, vết thương: Lá ớt, lá na, lá bồ công anh, lá tử vi, lá táo mỗi thứ 10-20 g, giã nát với một ít muối, đắp. Hoặc: Lá ớt, cành xương rồng bà có gai, lá mồng tơi mỗi thứ 5-10 g, giã nát nhuyễn, đắp.
Chữa đau bụng kinh niên: Rễ ớt, rễ chanh, rễ xuyên tiêu mỗi thứ 10 g sao vàng, sắc uống trong ngày, dùng nhiều ngày.
Quả ớt trị tỳ vị hư lạnh, tiêu chảy, nôn mửa, dạ dày ruột đầy trướng, mất trương lực, tích trệ, ăn không tiêu, đau nhức nửa đầu, đau lưng, đau khớp, thống phong, đau dây thần kinh, viêm thanh quản, viêm họng. Người đau dạ dày, tạng nhiệt, máu nóng không dùng ớt.
Các bài thuốc cụ thể:
Chữa đau lưng, thấp khớp, đau dây thần kinh: Quả ớt giã nát, ngâm rượu với tỷ lệ 1/2 (một phần ớt tươi, 2 phần rượu) dùng xoa bóp. Có thể lấy hạt ớt phơi khô, tán bột viên làm cao dán (dùng riêng hoặc phối hợp với các vị thuốc khác)...
Chữa trúng phong, răng cắn chặt: Lá ớt tươi (loại ớt chỉ thiên) 30-50 g, giã nát, thêm nước và ít muối, đổ nước vào miệng còn bã đắp vào răng, người bệnh sẽ tỉnh lại.
Chữa sốt rét: Lá ớt tươi 30 g giã nát, hòa với nước đun sôi để nguội, chắt nước cốt uống trước khi lên cơn sốt 2 giờ. Ngày 1 lần, dùng trong 5-7 ngày liền.
Chữa phù thũng: Lá ớt tươi 30-40 g, sao vàng, sắc uống trong ngày.
Chữa rắn rết cắn, côn trùng đốt: Ớt tươi 15 quả, lá đu đủ 3 lá, rễ ớt chỉ thiên 80 g, tất cả giã nát, thêm nước, gạn nước uống, bã dùng đắp lên vết cắn. Nếu là rết và côn trùng đốt dùng lượng ít hơn. Có thể dùng riêng lá ớt tươi lượng vừa đủ giã nát, đắp vào vết cắn. Sau 15-30 phút nếu còn đau nhức làm thêm lần nữa.
Chữa eczema: Lá ớt tươi 30 g, me chua 20 g, hai thứ giã nát đắp, dùng 5-10 ngày là khỏi.
Chữa mụn nhọt, đinh độc, vết thương: Lá ớt, lá na, lá bồ công anh, lá tử vi, lá táo mỗi thứ 10-20 g, giã nát với một ít muối, đắp. Hoặc: Lá ớt, cành xương rồng bà có gai, lá mồng tơi mỗi thứ 5-10 g, giã nát nhuyễn, đắp.
Chữa đau bụng kinh niên: Rễ ớt, rễ chanh, rễ xuyên tiêu mỗi thứ 10 g sao vàng, sắc uống trong ngày, dùng nhiều ngày.
***********************************
Một số bài thuốc có tía tô
Người già và người suy nhược nếu bị táo bón có thể lấy hạt tía tô và hạt hẹ mỗi thứ khoảng 15 g, giã nhỏ, chế thêm một bát nước khuấy đều rồi chắt lấy nước cốt nấu cháo ăn. Hiệu quả khá rõ rệt.
Các bài thuốc khác:
- Trị chứng cảm cúm, ho nặng: Nếu bị chứng cảm cúm, mồ hôi không ra, ho đến tức ngực thì nấu cháo múc ra một bát còn nóng rồi trộn đều 10-12 g tía tô đã rửa sạch, thái nhỏ cho người bệnh ăn, sau đó trùm kín chăn cho toát mồ hôi ra thì khỏi. Cũng có thể lấy lá tía tô tươi 20 g, rửa sạch, giã thật nát, cho thêm nước sôi vào rồi chắt gạn lấy khoảng 100 ml nước trong uống, rất công hiệu.
- Trị chứng đầy bụng, bí tiểu: Nếu như bị chứng tiểu tiện không thông, bụng dưới đầy trướng thì lấy khoảng 2 kg tía tô cả cây (cành, lá, hoa, hạt) cho vào nấu rồi xông vào phần bụng dưới (nguội thì đổ thêm nước sôi) sau đó dùng vải bọc muối rang nóng chườm vào những chỗ trướng và rốn. Sẽ thông tiểu ngay, chỗ đầy trướng cũng xẹp dần xuống.
Nếu thấy tự nhiên bụng đầy trướng rất đau thì lấy một nắm lá tía tô giã nát rồi gạn lấy nước, hòa thêm vào một ít muối uống hết một lần. Nếu thấy bị nôn và đi tiêu là hết đau trướng.
- Trị chứng hen suyễn: Lấy khoảng 50 g hạt tía tô, sao qua, tán thành bột mịn rồi nấu cháo với gạo tẻ, ăn vào lúc đói. Lưu ý: Không ăn cá chép với tía tô vì dễ bị sinh mụn nhọt.
- Trị chứng đầy bụng, bí tiểu: Nếu như bị chứng tiểu tiện không thông, bụng dưới đầy trướng thì lấy khoảng 2 kg tía tô cả cây (cành, lá, hoa, hạt) cho vào nấu rồi xông vào phần bụng dưới (nguội thì đổ thêm nước sôi) sau đó dùng vải bọc muối rang nóng chườm vào những chỗ trướng và rốn. Sẽ thông tiểu ngay, chỗ đầy trướng cũng xẹp dần xuống.
Nếu thấy tự nhiên bụng đầy trướng rất đau thì lấy một nắm lá tía tô giã nát rồi gạn lấy nước, hòa thêm vào một ít muối uống hết một lần. Nếu thấy bị nôn và đi tiêu là hết đau trướng.
- Trị chứng hen suyễn: Lấy khoảng 50 g hạt tía tô, sao qua, tán thành bột mịn rồi nấu cháo với gạo tẻ, ăn vào lúc đói. Lưu ý: Không ăn cá chép với tía tô vì dễ bị sinh mụn nhọt.
***********************************
Một số bài thuốc trị táo bón
Khoai lang 50 g, mía đỏ 60 g. Khoai lang tươi để cả vỏ, rửa sạch, xay nhỏ; mía ép lấy nước, hai thứ trộn đều với nhau, đun nhỏ lửa, quấy đều tay cho chín, chia 2 lần ăn trong ngày; ăn 5-7 ngày.
Táo bón có nhiều nguyên nhân gây nên, thông thường là do chế độ ăn thiếu rau, uống ít nước, bệnh trĩ... Có thể phòng táo bón bằng cách ăn nhiều rau, uống nhiều nước, vận động các bắp thịt ở bụng. Dùng bài thuốc sau:
- Mật ong 25 ml, vừng đen 20 g. Vừng đen giã dập cùng mật ong, thêm 150 ml nước quấy đều, đun nhỏ lửa. Khi chín chia 2 lần ăn trong ngày vào lúc đói, cần ăn liền 7 ngày.
- Đậu xanh 40 g, đường đỏ 30 g. Đậu xanh để cả vỏ giã dập, cùng đường đỏ cho vào nồi thêm 350 ml nước đun sôi kỹ, khi nhừ chia 2 lần ăn trong ngày, ăn liền 7 ngày.
- Hoa kim ngân 30 g, mật ong 20 ml. Hoa kim ngân cho vào nồi, thêm 250 ml nước đun sôi kỹ, chắt lấy 150 ml, cho mật ong vào quấy đều chia 3 lần uống trong ngày, cần uống liền 7-10 ngày.
- Cà rốt 50 g, mật ong 25 ml. Cà rốt rửa sạch, xay nhỏ, cho vào mật ong, thêm 150 ml nước quấy đều, đun nhỏ lửa, khi chín chia 2 lần, ăn lúc đói, ăn liền 7 ngày.
- Đậu đen 50 g, mật ong 25 ml. Đậu đen ninh nhừ, cho mật ong vào quấy đều, cho bệnh nhân ăn như bài trên.
- Hà thủ ô 150 g, táo tàu 13 quả. Hà thủ ô sấy khô, tán bột, táo tàu bóc lấy cùi, bỏ hạt, giã nhỏ, cho bột hà thủ ô vào, thêm nước cháo để luyện viên bằng hạt đậu xanh, phơi khô. Ngày uống 30-50 viên chia 2 lần, uống với nước sôi để nguội.
- Mật ong 25 ml, vừng đen 20 g. Vừng đen giã dập cùng mật ong, thêm 150 ml nước quấy đều, đun nhỏ lửa. Khi chín chia 2 lần ăn trong ngày vào lúc đói, cần ăn liền 7 ngày.
- Đậu xanh 40 g, đường đỏ 30 g. Đậu xanh để cả vỏ giã dập, cùng đường đỏ cho vào nồi thêm 350 ml nước đun sôi kỹ, khi nhừ chia 2 lần ăn trong ngày, ăn liền 7 ngày.
- Hoa kim ngân 30 g, mật ong 20 ml. Hoa kim ngân cho vào nồi, thêm 250 ml nước đun sôi kỹ, chắt lấy 150 ml, cho mật ong vào quấy đều chia 3 lần uống trong ngày, cần uống liền 7-10 ngày.
- Cà rốt 50 g, mật ong 25 ml. Cà rốt rửa sạch, xay nhỏ, cho vào mật ong, thêm 150 ml nước quấy đều, đun nhỏ lửa, khi chín chia 2 lần, ăn lúc đói, ăn liền 7 ngày.
- Đậu đen 50 g, mật ong 25 ml. Đậu đen ninh nhừ, cho mật ong vào quấy đều, cho bệnh nhân ăn như bài trên.
- Hà thủ ô 150 g, táo tàu 13 quả. Hà thủ ô sấy khô, tán bột, táo tàu bóc lấy cùi, bỏ hạt, giã nhỏ, cho bột hà thủ ô vào, thêm nước cháo để luyện viên bằng hạt đậu xanh, phơi khô. Ngày uống 30-50 viên chia 2 lần, uống với nước sôi để nguội.
***********************************
Một số bài thuốc từ cây mía
Khi bị viêm niệu đạo, đi tiểu đau buốt do viêm nhiễm hệ thống bài tiết, có thể lấy nước mía, ngó sen tươi mỗi thứ 60 g, mỗi ngày uống 2 lần. Để trị miệng nhiệt lưỡi khô, viêm dạ dày mạn tính, nên uống từ từ hỗn hợp nước mía và nước gừng tươi.
Trong cây mía có nhiều chất dinh dưỡng như đạm, canxi, khoáng, sắt; nhiều nhất là đường (12%). Theo các chuyên gia y học, mía bổ sung dinh dưỡng cho cơ bắp, thanh nhiệt, giải khát, xóa tan mệt mỏi, trợ giúp tiêu hóa. Sau đây là một số bài thuốc từ mía:
- Viêm dạ dày mạn tính: Nước mía, rượu nho mỗi thứ một ly, trộn đều, uống ngày 2 lần vào buổi sáng và tối.
- Đại tiện táo bón: Nước mía, mật ong mỗi thứ một ly, trộn đều. Uống ngày 2 lần vào buổi sáng và tối khi bụng trống.
- Nội nhiệt miệng khô, nôn mửa, ho, viêm họng, chứng miệng khô nóng ở người già sau khi sốt: Nấu cháo bằng gạo nếp, khi chín thì cho nước mía vào quấy đều để uống.
- Viêm da: Vỏ mía tím nướng thành tro, nghiền vụn, trộn với dầu vừng để bôi.
Trong cây mía có nhiều chất dinh dưỡng như đạm, canxi, khoáng, sắt; nhiều nhất là đường (12%). Theo các chuyên gia y học, mía bổ sung dinh dưỡng cho cơ bắp, thanh nhiệt, giải khát, xóa tan mệt mỏi, trợ giúp tiêu hóa. Sau đây là một số bài thuốc từ mía:
- Viêm dạ dày mạn tính: Nước mía, rượu nho mỗi thứ một ly, trộn đều, uống ngày 2 lần vào buổi sáng và tối.
- Đại tiện táo bón: Nước mía, mật ong mỗi thứ một ly, trộn đều. Uống ngày 2 lần vào buổi sáng và tối khi bụng trống.
- Nội nhiệt miệng khô, nôn mửa, ho, viêm họng, chứng miệng khô nóng ở người già sau khi sốt: Nấu cháo bằng gạo nếp, khi chín thì cho nước mía vào quấy đều để uống.
- Viêm da: Vỏ mía tím nướng thành tro, nghiền vụn, trộn với dầu vừng để bôi.
***********************************
Một số bài thuốc từ dưa hấu
Vỏ dưa hấu, hoa kim ngân tươi mỗi thứ 20 g; lá sen tươi, hoa đậu ván trắng, vỏ quả mướp, búp tre xanh mỗi thứ 12 g, sắc uống. Bài thuốc này có tác dụng trị nóng nực, ra mồ hôi nhiều, đầu váng, mắt hoa, đau nhức.
Theo Đông y, quả dưa hấu vị ngọt mát, tính lạnh, có tác dụng giải khát, giải say nắng, lợi tiểu, hạ huyết áp, thường được dùng điều trị nóng trong bàng quang, đái buốt, viêm thận phù thũng, vàng da, ra máu, viêm họng. Thịt quả, lớp vỏ xanh (tây qua bì), phần cùi trắng(tây qua thúy), hạt... đều có thể làm thuốc.
Sau đây là một số bài thuốc:
- Tây qua bì 20 g, kim ngân hoa 20 g, trúc diệp (lá tre) 10 g, nước 500 ml, sắc trong 15 phút, chia làm 3 lần uống trong ngày. Thuốc có tác dụng giải say nắng, sốt cao.
- Rễ cỏ tranh tươi 40 g, vỏ dưa hấu 40 g, đậu nhự 12 g, xích tiểu đậu 20 g; sắc uống, trị phù thũng do viêm thận cấp.
- Chọn quả dưa hấu nhỏ, bổ ra, loại phần thịt quả, sau đó cho sa nhân và tỏi vào, đậy lại, trát đất xung quanh đem phơi rồi sấy khô. Loại bỏ phần bùn đất, tán thành bột. Ngày dùng 2-3 lần, mỗi lần 4 g (uống với nước ấm). Thuốc có tác dụng chữa báng nước.
- Vỏ dưa hấu 1 lạng, mạch nha 0,5 lạng, ý dĩ 0,5 lạng. Nấu thành cháo đặc để ăn, ăn liền 6-7 ngày.
Lưu ý: Không nên dùng các bài thuốc trên cho những người tỳ vị hư hàn (khi ăn thức ăn tanh lạnh thường đi ngoài, bụng ngực đau và dễ nôn mửa...), có bệnh hàn thấp (bụng trướng đầy hoặc tiêu chảy khi ăn thức ăn tanh lạnh).
Sau đây là một số bài thuốc:
- Tây qua bì 20 g, kim ngân hoa 20 g, trúc diệp (lá tre) 10 g, nước 500 ml, sắc trong 15 phút, chia làm 3 lần uống trong ngày. Thuốc có tác dụng giải say nắng, sốt cao.
- Rễ cỏ tranh tươi 40 g, vỏ dưa hấu 40 g, đậu nhự 12 g, xích tiểu đậu 20 g; sắc uống, trị phù thũng do viêm thận cấp.
- Chọn quả dưa hấu nhỏ, bổ ra, loại phần thịt quả, sau đó cho sa nhân và tỏi vào, đậy lại, trát đất xung quanh đem phơi rồi sấy khô. Loại bỏ phần bùn đất, tán thành bột. Ngày dùng 2-3 lần, mỗi lần 4 g (uống với nước ấm). Thuốc có tác dụng chữa báng nước.
- Vỏ dưa hấu 1 lạng, mạch nha 0,5 lạng, ý dĩ 0,5 lạng. Nấu thành cháo đặc để ăn, ăn liền 6-7 ngày.
Lưu ý: Không nên dùng các bài thuốc trên cho những người tỳ vị hư hàn (khi ăn thức ăn tanh lạnh thường đi ngoài, bụng ngực đau và dễ nôn mửa...), có bệnh hàn thấp (bụng trướng đầy hoặc tiêu chảy khi ăn thức ăn tanh lạnh).
***********************************
Một số bài thuốc quý từ nghệ vàng
Phụ nữ có thai bị ra máu, đau bụng (dọa sẩy) có thể lấy nghệ vàng, đương quy, thục địa, ngải cứu, lộc giác giao (sừng hươu) mỗi vị 1 lạng, sao khô vàng, tán nhỏ, mỗi lần uống 4 đồng cân (khoảng 40 g). Dùng gừng tươi 3 lát, táo 3 quả, sắc với nước, uống trước bữa ăn khi thuốc còn ấm.
Củ nghệ vàng còn có các tên gọi như khương hoàng, vị cay đắng, tính bình, có tác dụng hành khí, hoạt huyết, làm tan máu, tan ứ và giảm đau. Uất kim (củ con của cây nghệ) vị cay ngọt, tính mát, làm mát máu, an thần, tan máu ứ, giảm đau.
Sách Đông y bảo giám cho rằng khương hoàng có tác dụng phá huyết, hành khí, thông kinh, chỉ thống (giảm đau), chủ trị bụng chướng đầy, cánh tay đau, bế kinh, sau đẻ đau bụng do ứ trệ, vấp ngã, chấn thương, ung thũng... Nhật hoa tử bản thảo cho khương hoàng có tác dụng trị huyết cục, nhọt, sưng, thông kinh nguyệt, vấp ngã máu ứ, tiêu sưng độc, tiêu cơm...
Một số phương thuốc dùng nghệ trong Nam dược thần hiệu :
- Phòng và chữa các bệnh sau đẻ: Dùng 1 củ nghệ nướng, nhai ăn, uống với rượu hay đồng tiện (nước tiểu trẻ em khỏe mạnh).
- Chữa lên cơn hen, đờm kéo lên tắc nghẹt cổ, khó thở: Dùng nghệ 1 lạng, giã nát, hòa với đồng tiện, vắt lấy nước cốt uống.
- Chữa trẻ em đái ra máu hay bệnh lậu đái rắt: Dùng nghệ và hành sắc uống.
- Trị chứng điên cuồng, tức bực lo sợ: Nghệ khô 250 g, phèn chua 100 g, tán nhỏ, viên với hồ bằng hạt đậu, uống mỗi lần 50 viên với nước chín (có thể uống mỗi lần 4-8 g), ngày uống 2 lần.
- Chữa đau trong lỗ tai: Mài nghệ rỏ vào.
- Chữa trị lở, lòi dom: Mài nghệ bôi vào.
Sách Đông y bảo giám cho rằng khương hoàng có tác dụng phá huyết, hành khí, thông kinh, chỉ thống (giảm đau), chủ trị bụng chướng đầy, cánh tay đau, bế kinh, sau đẻ đau bụng do ứ trệ, vấp ngã, chấn thương, ung thũng... Nhật hoa tử bản thảo cho khương hoàng có tác dụng trị huyết cục, nhọt, sưng, thông kinh nguyệt, vấp ngã máu ứ, tiêu sưng độc, tiêu cơm...
Một số phương thuốc dùng nghệ trong Nam dược thần hiệu :
- Phòng và chữa các bệnh sau đẻ: Dùng 1 củ nghệ nướng, nhai ăn, uống với rượu hay đồng tiện (nước tiểu trẻ em khỏe mạnh).
- Chữa lên cơn hen, đờm kéo lên tắc nghẹt cổ, khó thở: Dùng nghệ 1 lạng, giã nát, hòa với đồng tiện, vắt lấy nước cốt uống.
- Chữa trẻ em đái ra máu hay bệnh lậu đái rắt: Dùng nghệ và hành sắc uống.
- Trị chứng điên cuồng, tức bực lo sợ: Nghệ khô 250 g, phèn chua 100 g, tán nhỏ, viên với hồ bằng hạt đậu, uống mỗi lần 50 viên với nước chín (có thể uống mỗi lần 4-8 g), ngày uống 2 lần.
- Chữa đau trong lỗ tai: Mài nghệ rỏ vào.
- Chữa trị lở, lòi dom: Mài nghệ bôi vào.
***********************************
Thêm một số bài thuốc từ khoai lang
Nếu bị ngộ độc sắn, có thể lấy khoai lang gọt vỏ, giã nát, thêm nước, vắt lấy nước cốt uống nửa giờ một lần. Còn khi bị băng huyết, hãy lấy rau khoai lang tươi 1 nắm, giã lấy nước cốt uống.
Sau đây là một số bài thuốc khác từ khoai lang:
- Giải sốt cảm cúm:
+ Khoai lang trắng luộc ăn phụ hoặc ăn thay cơm; cũng có thể nấu khoai lang với cải bẹ xanh ăn thay cơm.
+ Khoai lang trắng khô 1 nắm, nghệ 1 củ, giấm nửa chén con sắc uống nóng.
+ Khoai lang trắng tươi luộc chín để xông, sau đó ăn khoai nóng, uống nước luộc khoai nóng cho ra mồ hôi.
- Thanh nhiệt, giải độc: Khoai lang 1 củ 400 g, gạo 200 g, đậu xanh nửa bát cơm. Mã thầy 4 củ, củ cải 1 củ, tỏi 3 nhánh, thịt gà 150 g, tôm nõn 70 g, gia vị. Các thứ giã nát hoặc thái nhỏ, nấu nhừ, riêng đậu xanh và mã thầy cho vào sau, nấu nhừ tiếp.
- Chữa mụn nhọt: Khoai lang củ 40 g, lá bồ công anh 40 g, đường hoặc mật mía giã nhuyễn, bọc vào vải để đắp.
- Hút mủ nhọt đã vỡ: Lá khoai lang non 50 g, đậu xanh 12 g, thêm chút muối, giã nhuyễn, bọc vào vải đắp.
Sau đây là một số bài thuốc khác từ khoai lang:
- Giải sốt cảm cúm:
+ Khoai lang trắng luộc ăn phụ hoặc ăn thay cơm; cũng có thể nấu khoai lang với cải bẹ xanh ăn thay cơm.
+ Khoai lang trắng khô 1 nắm, nghệ 1 củ, giấm nửa chén con sắc uống nóng.
+ Khoai lang trắng tươi luộc chín để xông, sau đó ăn khoai nóng, uống nước luộc khoai nóng cho ra mồ hôi.
- Thanh nhiệt, giải độc: Khoai lang 1 củ 400 g, gạo 200 g, đậu xanh nửa bát cơm. Mã thầy 4 củ, củ cải 1 củ, tỏi 3 nhánh, thịt gà 150 g, tôm nõn 70 g, gia vị. Các thứ giã nát hoặc thái nhỏ, nấu nhừ, riêng đậu xanh và mã thầy cho vào sau, nấu nhừ tiếp.
- Chữa mụn nhọt: Khoai lang củ 40 g, lá bồ công anh 40 g, đường hoặc mật mía giã nhuyễn, bọc vào vải để đắp.
- Hút mủ nhọt đã vỡ: Lá khoai lang non 50 g, đậu xanh 12 g, thêm chút muối, giã nhuyễn, bọc vào vải đắp.
***********************************
Thêm một số bài thuốc từ hành
Nếu bị chai chân, dùng một củ hành sống rửa sạch, giã nát, đắp lên chỗ chai rồi lấy vải buộc lại, mỗi ngày làm một lần, sau nhiều lần sẽ khỏi. Cũng có thể lấy hành một cây (bỏ lá), tỏi vỏ tím một củ (bóc vỏ ngoài) giã nhuyễn, đắp vào chỗ chai, lấy vải buộc lại. Sau 6-7 ngày, cục chai sẽ rụng đi.
Một số bài thuốc khác từ hành:
- Trừ giun đũa: Hành cây (cả củ và lá) 30 g, rửa sạch, thái nhỏ, sao qua với dầu hạt cải (đốt to lửa, sao nhanh, không cho thêm nước và muối), cho trẻ ăn vào sáng sớm lúc vừa ngủ dậy. Khoảng 2 giờ sau có thể ăn uống bình thường. Ăn liên tục trong 3 ngày, có tác dụng trừ giun, không độc hại.
- Chữa giun chui ống mật: Hành tươi giã nát, ép lấy 30 g nước cốt, dầu trà 30 g (có thể thay bằng dầu lạc hoặc dầu vừng), 2 thứ trộn đều để uống. Cũng có thể để uống riêng từng thứ cách nhau vài phút.
- Chữa trúng gió ngất xỉu: Lấy 3 cây hành trắng rửa sạch, giã nát, vắt lấy nước cốt, hòa với nước tiểu trẻ trai (7-10 tuổi) rồi đổ cho bệnh nhân uống.
- Chữa bí tiểu tiện: Lấy 4-5 cây hành trắng rửa sạch, giã nát cả lá lẫn củ, nhào với mật ong rồi đắp lên 2 ngọc hành, rất công hiệu.
Hoặc: Lấy 3 củ hành rửa sạch, băm nhỏ, sao nóng, bọc vải chườm ở bụng dưới (tức vùng bụng dưới rốn, trên xương mu), hễ nguội lại thay bọc nóng chườm tiếp, vừa chườm vừa kết hợp dùng tay chà xát lòng bàn tay, bàn chân bệnh nhân.
- Chữa rôm sảy: Lấy một cây hành giã nát, trộn đều với giấm, sao lên rồi bôi vào nơi có rôm sảy.
- Chữa chứng nôn, trớ ở trẻ: Hành 1 củ, gừng 2 lát, cuống quả thị (hoặc tai hồng) 3 cái, rửa sạch, cho 1 bát nước sắc còn nửa bát, chia làm 3 lần cho trẻ uống trong ngày.
Hoặc: Hành tươi 1 củ, gừng tươi 2 lát, sữa bò một ly, nấu chín, lọc lấy nước cho trẻ uống.
Chú ý: Hành có tác dụng phát tán. Vì vậy, việc dùng quá nhiều và trong thời gian quá dài sẽ gây hại cho cơ thể.
Một số bài thuốc khác từ hành:
- Trừ giun đũa: Hành cây (cả củ và lá) 30 g, rửa sạch, thái nhỏ, sao qua với dầu hạt cải (đốt to lửa, sao nhanh, không cho thêm nước và muối), cho trẻ ăn vào sáng sớm lúc vừa ngủ dậy. Khoảng 2 giờ sau có thể ăn uống bình thường. Ăn liên tục trong 3 ngày, có tác dụng trừ giun, không độc hại.
- Chữa giun chui ống mật: Hành tươi giã nát, ép lấy 30 g nước cốt, dầu trà 30 g (có thể thay bằng dầu lạc hoặc dầu vừng), 2 thứ trộn đều để uống. Cũng có thể để uống riêng từng thứ cách nhau vài phút.
- Chữa trúng gió ngất xỉu: Lấy 3 cây hành trắng rửa sạch, giã nát, vắt lấy nước cốt, hòa với nước tiểu trẻ trai (7-10 tuổi) rồi đổ cho bệnh nhân uống.
- Chữa bí tiểu tiện: Lấy 4-5 cây hành trắng rửa sạch, giã nát cả lá lẫn củ, nhào với mật ong rồi đắp lên 2 ngọc hành, rất công hiệu.
Hoặc: Lấy 3 củ hành rửa sạch, băm nhỏ, sao nóng, bọc vải chườm ở bụng dưới (tức vùng bụng dưới rốn, trên xương mu), hễ nguội lại thay bọc nóng chườm tiếp, vừa chườm vừa kết hợp dùng tay chà xát lòng bàn tay, bàn chân bệnh nhân.
- Chữa rôm sảy: Lấy một cây hành giã nát, trộn đều với giấm, sao lên rồi bôi vào nơi có rôm sảy.
- Chữa chứng nôn, trớ ở trẻ: Hành 1 củ, gừng 2 lát, cuống quả thị (hoặc tai hồng) 3 cái, rửa sạch, cho 1 bát nước sắc còn nửa bát, chia làm 3 lần cho trẻ uống trong ngày.
Hoặc: Hành tươi 1 củ, gừng tươi 2 lát, sữa bò một ly, nấu chín, lọc lấy nước cho trẻ uống.
Chú ý: Hành có tác dụng phát tán. Vì vậy, việc dùng quá nhiều và trong thời gian quá dài sẽ gây hại cho cơ thể.
***********************************
Những bài thuốc từ đậu ván trắng
Những phụ nữ bị khí hư, bạch đới, kinh nguyệt thất thường có thể dùng đậu ván trắng 1 kg, sao chín, tán mịn, hòa với nước đun sôi để nguội hoặc nước cơm để uống ngày 3 lần, mỗi lần 8 g. Uống liên tục trong nhiều ngày sẽ khỏi.
Ngoài ra, đậu ván trắng có thể giúp trị các chứng bệnh sau:
- Viêm ruột cấp tính: Đậu ván trắng nghiền thành bột mịn, ngày uống 3-4 lần, mỗi lần 12 g, dùng nước ấm để chiêu thuốc. Cũng có thể dùng đậu ván trắng 30-60 g, sắc lấy nước, chia làm 3 phần uống trong ngày.
- Phù thũng: Đậu ván trắng sao vàng, tán thành bột mịn, ngày uống 2-3 lần, mỗi lần 10 g. Đối với trẻ nhỏ thì tùy theo tuổi mà giảm bớt liều lượng.
- Nổi ban xuất huyết: Đậu ván trắng 100 g, táo tàu 20 quả, đường phèn 50 g, tất cả cho vào nồi sắc lấy nước uống trong ngày.
- Động thai: Đậu ván trắng 30 g, nghiền mịn, uống cùng nước cơm. Cũng có thể sắc kỹ lấy nước uống.
- Chứng đổ mồ hôi trộm hoặc ra nhiều mồ hôi ở trẻ: Đậu ván trắng sao chín, tán mịn, mỗi ngày uống 5-10 g, chiêu bột thuốc bằng nước sôi để nguội. Uống liên tục trong nhiều ngày sẽ khỏi.
- Lên đậu, nhiễm độc, toàn thân lở loét ở trẻ: Đậu ván trắng nghiền thành bột mịn, xoa lên những chỗ bị bệnh, có tác dụng giải độc và giúp chóng lên da.
- Ho gà: Đậu ván trắng 9 g, táo tàu 10 quả, sắc lấy nước uống hằng ngày, liên tục trong 1 tuần.
- Dị ứng, ngộ độc do thịt gia cầm, tôm cá: Có thể dùng một trong những cách sau:
+ Đậu ván trắng tươi 3 quả, giã nát, hòa với nước sôi để uống.
+ Đậu ván trắng sống 20 g, nghiền mịn, hòa với nước sôi để nguội uống.
+ Đậu ván trắng 1 kg, rang chín, nghiền thành bột mịn, hòa với nước sôi để nguội, uống ngày 3 lần, mỗi lần 12 g, liên tục trong nhiều ngày.
Ngoài ra, đậu ván trắng có thể giúp trị các chứng bệnh sau:
- Viêm ruột cấp tính: Đậu ván trắng nghiền thành bột mịn, ngày uống 3-4 lần, mỗi lần 12 g, dùng nước ấm để chiêu thuốc. Cũng có thể dùng đậu ván trắng 30-60 g, sắc lấy nước, chia làm 3 phần uống trong ngày.
- Phù thũng: Đậu ván trắng sao vàng, tán thành bột mịn, ngày uống 2-3 lần, mỗi lần 10 g. Đối với trẻ nhỏ thì tùy theo tuổi mà giảm bớt liều lượng.
- Nổi ban xuất huyết: Đậu ván trắng 100 g, táo tàu 20 quả, đường phèn 50 g, tất cả cho vào nồi sắc lấy nước uống trong ngày.
- Động thai: Đậu ván trắng 30 g, nghiền mịn, uống cùng nước cơm. Cũng có thể sắc kỹ lấy nước uống.
- Chứng đổ mồ hôi trộm hoặc ra nhiều mồ hôi ở trẻ: Đậu ván trắng sao chín, tán mịn, mỗi ngày uống 5-10 g, chiêu bột thuốc bằng nước sôi để nguội. Uống liên tục trong nhiều ngày sẽ khỏi.
- Lên đậu, nhiễm độc, toàn thân lở loét ở trẻ: Đậu ván trắng nghiền thành bột mịn, xoa lên những chỗ bị bệnh, có tác dụng giải độc và giúp chóng lên da.
- Ho gà: Đậu ván trắng 9 g, táo tàu 10 quả, sắc lấy nước uống hằng ngày, liên tục trong 1 tuần.
- Dị ứng, ngộ độc do thịt gia cầm, tôm cá: Có thể dùng một trong những cách sau:
+ Đậu ván trắng tươi 3 quả, giã nát, hòa với nước sôi để uống.
+ Đậu ván trắng sống 20 g, nghiền mịn, hòa với nước sôi để nguội uống.
+ Đậu ván trắng 1 kg, rang chín, nghiền thành bột mịn, hòa với nước sôi để nguội, uống ngày 3 lần, mỗi lần 12 g, liên tục trong nhiều ngày.
ST