nguyenkim559
New member
Viêm họng là chứng mà khi đó niêm mạc họng và hầu bị viêm. Giống như các loại bệnh viêm khác, viêm họng có thể là cấp tính hay mạn tính. Phần lớn các trường hợp viêm họng do virus gây ra (40 – 80%), phần còn lại là do vi khuẩn, nấm hay những chất kích thích như là chất gây ô nhiễm hay hóa chất. Viêm họng có thể dẫn tới viêm amidan khiến việc thở và nuốt gặp khó khăn. Viêm họng có thể đi cùng với ho và sốt, ví dụ như trong trường hợp tác nhân của nó là nhiễm trùng phần trên của đường hô hấp. Viêm họng có thể xuất hiện riêng biệt, tuy nhiên hay xuất hiện cùng với các chứng: viêm V.A, viêm amidan, bệnh lý phát ban, cúm, sởi, bạch hầu, ho gà, vincent, hay các bệnh máu.
Viêm họng mãn tính
Người mắc bệnh cảm thấy khô họng, nóng rát trong họng hoặc có cảm giác ngứa họng, vướng họng nhất là khi ngủ dậy, phải cố khạc đờm, đằng hắng để làm long đờm, đờm dẻo và đặc thường tăng lên khi nuốt. Người bị bệnh thường phải khạc nhổ luôn, có ít nhầy quánh. Ho nhiều vào ban đêm, khi lạnh, nuốt hơi nghẹn. Tiếng nói bị khàn trong giây lát, khạc hoặc hắng dặng thì tiếng trở lại bình thường. Khi uống rượu, hút thuốc lá nhiều, nói nhiều, dấu hiệu nói trên càng trở nên rõ rệt.
Viêm họng hạt (Thể đặc biệt của viêm họng mãn)
Biểu hiện của hội chứng viêm họng hạt là cảm giác vướng víu, ngứa rát trong họng; ho và khạc đờm quánh dính hoặc trắng nhầy thường xuyên (nhất là sáng sớm, khi ngủ dậy). Nhiều người bệnh do ngứa họng nên hay khậm khạc, đằng hắng. Khám tại chỗ thấy thành bên họng hơi đỏ, thành sau họng có những hạt trắng hồng. Niêm mạc họng đỏ và dày lên, có thể có những ổ loét dễ nhầm với bệnh lý nhiệt miệng. Tổ chức bạch huyết ở thành sau họng phát triển mạnh, quá phát thành từng đám to nhỏ không đều, màu hồng hoặc đỏ, lâu ngày các đám này thu gọn lại thành những hạt to nhỏ hình thù khác nhau (viêm họng hạt). Có khi tập trung thành một dải gồ lên ở phía sau và dọc theo trụ sau của amidan trông như một trụ sau thứ hai gọi là “trụ giả”.
Viêm họng cấp (hoặc gọi là viêm họng đỏ)
Dấu hiệu ban đầu thường là: Cảm giác khô nóng và rát trong họng, nuốt nói cảm thấy vướng, sau đó tăng lên thành đau trong họng, nói khó hoặc nuốt khó, ho khạc nhưng thường không có đờm mà chỉ ra ít nước nhày. Người bị bệnh có thể thấy mệt mỏi, sốt nhẹ ớn lạnh; hoặc sốt cao 38 – 39 độ C trong viêm cấp tính hoặc kèm theo viêm Amidan, cúm nhiễm virus… Tình trạng sổ mũi ngạt mũi, hắt hơi, nhức đầ, ù tai thường kèm theo ở trường hợp viêm họng do cúm, dị ứng thời tiết, do lạnh… Khám họng thấy: Toàn bộ hoặc một phần niêm mạc họng đỏ rực. Màn hầu, trụ trước, trụ sau và thành sau họng phù nề, đỏ thẫm. Ngoài ra còn có thể thấy: amidan viêm to, trên bề mặt amidan có chất nhầy trong. Khám các hạch vùng cổ dưới hàm có thể viêm tấy, đỏ, đau
Các tình trạng trên có thể diễn biến 3 – 4 ngày rồi lui dần và mất đi do điều trị hoặc tự khỏi do sức để kháng của cơ thể.
Xét nghiệm công thức máu sẽ thấy bạch cầu tăng cao (hoặc có thể không tăng trong trường hợp nguyên nhân là do vi rút trong giai đoạn đầu), tốc độ máu lắng tăng, chỉ số CRP (C Reaction Protein) dương tính. Xét nghiệm nhày họng, bằng biện pháp nhuộm đơn thấy nhiều tế bào bạch cầu, vi khuẩn (trực khuẩn hay cầu khuẩn). Nhuộm bằng phương pháp gram có thể thấy cầu khuẩn gram dương (xếp đôi, hoặc thành đám hoặc đứng riêng rẽ) hoặc thấy cả xoắn khuẩn Vincent. Nếu có điều kiện nuôi cấy chất nhày họng sẽ xác định được loại vi khuẩn gây viêm họng cấp, trên cơ sở đó thực hiện kháng sinh đồ để chọn kháng sinh thích hợp cho việc điều trị viêm họng .
Viêm họng mãn tính
Người mắc bệnh cảm thấy khô họng, nóng rát trong họng hoặc có cảm giác ngứa họng, vướng họng nhất là khi ngủ dậy, phải cố khạc đờm, đằng hắng để làm long đờm, đờm dẻo và đặc thường tăng lên khi nuốt. Người bị bệnh thường phải khạc nhổ luôn, có ít nhầy quánh. Ho nhiều vào ban đêm, khi lạnh, nuốt hơi nghẹn. Tiếng nói bị khàn trong giây lát, khạc hoặc hắng dặng thì tiếng trở lại bình thường. Khi uống rượu, hút thuốc lá nhiều, nói nhiều, dấu hiệu nói trên càng trở nên rõ rệt.
Biểu hiện của hội chứng viêm họng hạt là cảm giác vướng víu, ngứa rát trong họng; ho và khạc đờm quánh dính hoặc trắng nhầy thường xuyên (nhất là sáng sớm, khi ngủ dậy). Nhiều người bệnh do ngứa họng nên hay khậm khạc, đằng hắng. Khám tại chỗ thấy thành bên họng hơi đỏ, thành sau họng có những hạt trắng hồng. Niêm mạc họng đỏ và dày lên, có thể có những ổ loét dễ nhầm với bệnh lý nhiệt miệng. Tổ chức bạch huyết ở thành sau họng phát triển mạnh, quá phát thành từng đám to nhỏ không đều, màu hồng hoặc đỏ, lâu ngày các đám này thu gọn lại thành những hạt to nhỏ hình thù khác nhau (viêm họng hạt). Có khi tập trung thành một dải gồ lên ở phía sau và dọc theo trụ sau của amidan trông như một trụ sau thứ hai gọi là “trụ giả”.
Viêm họng cấp (hoặc gọi là viêm họng đỏ)
Dấu hiệu ban đầu thường là: Cảm giác khô nóng và rát trong họng, nuốt nói cảm thấy vướng, sau đó tăng lên thành đau trong họng, nói khó hoặc nuốt khó, ho khạc nhưng thường không có đờm mà chỉ ra ít nước nhày. Người bị bệnh có thể thấy mệt mỏi, sốt nhẹ ớn lạnh; hoặc sốt cao 38 – 39 độ C trong viêm cấp tính hoặc kèm theo viêm Amidan, cúm nhiễm virus… Tình trạng sổ mũi ngạt mũi, hắt hơi, nhức đầ, ù tai thường kèm theo ở trường hợp viêm họng do cúm, dị ứng thời tiết, do lạnh… Khám họng thấy: Toàn bộ hoặc một phần niêm mạc họng đỏ rực. Màn hầu, trụ trước, trụ sau và thành sau họng phù nề, đỏ thẫm. Ngoài ra còn có thể thấy: amidan viêm to, trên bề mặt amidan có chất nhầy trong. Khám các hạch vùng cổ dưới hàm có thể viêm tấy, đỏ, đau
Các tình trạng trên có thể diễn biến 3 – 4 ngày rồi lui dần và mất đi do điều trị hoặc tự khỏi do sức để kháng của cơ thể.
Xét nghiệm công thức máu sẽ thấy bạch cầu tăng cao (hoặc có thể không tăng trong trường hợp nguyên nhân là do vi rút trong giai đoạn đầu), tốc độ máu lắng tăng, chỉ số CRP (C Reaction Protein) dương tính. Xét nghiệm nhày họng, bằng biện pháp nhuộm đơn thấy nhiều tế bào bạch cầu, vi khuẩn (trực khuẩn hay cầu khuẩn). Nhuộm bằng phương pháp gram có thể thấy cầu khuẩn gram dương (xếp đôi, hoặc thành đám hoặc đứng riêng rẽ) hoặc thấy cả xoắn khuẩn Vincent. Nếu có điều kiện nuôi cấy chất nhày họng sẽ xác định được loại vi khuẩn gây viêm họng cấp, trên cơ sở đó thực hiện kháng sinh đồ để chọn kháng sinh thích hợp cho việc điều trị viêm họng .